Đề bài số 09 :
“VỤ TRIỆU TRƯỜNG S, NGUYỄN ANH T – PHẠM TỘI “CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH”.
BÀI LÀM
I, Mở đầu
Theo quy định tại Bộ luật tố
tụng hình sự, trong khoảng thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và
bản kết luận điều tra do cơ quan công an chuyển qua (gọi là giai đoạn điều
tra), nếu xác định hồ sơ đã chặt chẽ, đúng pháp luật và có căn cứ kết tội rõ
ràng, Viện kiểm sát (còn gọi là cơ quan công tố) sẽ tiến hành việc truy tố bị
can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng. Tại khoản 3 Điều 166 BLTTHS năm 2003
quy định : “Trong trưởng hợp truy tố thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra
quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, VKS phải gửi hồ sơ văn bản cáo trạng đến
Tòa án”. Như vậy bản cáo trạng chính là hình thức pháp lý của quyết định truy
tố. Bản cáo trạng là văn bản mang tính quyền lực Nhà nước – quyền công tố, với
nội dung là thực hiện việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử.
Bản cáo trạng thể hiện quan điểm của Viện Kiểm sát trong việc cáo buộc một cá
nhân đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm. Bản cáo trạng là văn bản pháp lý
đặc trưng của Viện Kiểm Sát.
Bản cáo trạng là cơ sở để Tòa
án tiến hành hoạt động xét xử, là căn cứ để xác định giới hạn xét xử vụ án. Bản
cáo trạng cũng là căn cứ để Tòa án tiến hành những hoạt động cần thiết trong
quá trình chuẩn bị xét xử. Bản cáo trạng là hình thức pháp lý của quyết định
truy tố nên những người tham gia tố tụng như bị cáo, người bị hại, người có
quyền và nghãi vụ liên quan, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương
sự ... phải căn cứ vào đó để chuẩn bị cho việc bào chữa, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp tại phiên tòa.
Bản cáo trạng là một văn bản
tố tụng rất quan trọng, thể hiện quan điểm kết tội của cơ quan công tố đối với
bị can. Theo qui định, nội dung bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, giờ, tháng,
năm, địa điểm xảy ra tội phạm; thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả
của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác; những chứng cứ xác định tội
trạng của bị can, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự; nhân thân của bị can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật hình
sự được áp dụng.
Bản cáo trạng phải ghi rõ
ngày, tháng, năm lập cáo trạng; họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra bản cáo
trạng.
Trước khi phiên tòa xét xử sơ
thẩm diễn ra, bản cáo trạng phải được gửi cho bị can (người bị truy tố) để họ
biết rõ mình bị truy tố về tội gì, nặng nhẹ ra sao … để chuẩn bị những lý lẽ
nhằm “cãi” lại bản cáo trạng. Việc “cãi” này chính là việc bào chữa – là một
quyền luật định của bị can, bị cáo.
Nếu bị can, bị cáo có mời
luật sư, thì luật sư cũng được xem xét hồ sơ vụ án (bao gồm cả bản cáo trạng)
để bào chữa cho bị cáo.
Như vậy, nói tóm lại, bản cáo
trạng là văn bản kết tội của Viện kiểm sát đối với một người. Bản cáo trạng
được Kiểm sát viên (công tố viên) – người đại diện của Viện kiểm sát, công bố
tại phiên tòa sơ thẩm.
II, Soạn thảo
bản cáo trạng
Dựa vào dữ liệu đầu bài viết bản cáo
trạng truy tố Triệu Trường S và Nguyễn Anh T ra tòa án Tỉnh TN để xét xử:
![]()
Số : 104/CT-VKS
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TN, ngày 06 tháng
10 năm 2013
|
CÁO TRẠNG
VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH TN
-
Căn cứ các Điều 36, 166 và 167 Bộ luật tố tụng hình sự;
-
Căn cứ quyết định khởi tố vụ án hình sự số 145 ngày
29/05/2012 của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh TN về tội “cố ý gây
thương tích”. Quy định tại Khoản 3 Điều 104 Bộ Luật hình sự;
-
Căn cứ quyết định khởi tố bị can số 146 ngày 29/05/2013 của
cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh TN, đối với Triệu Trường S và Nguyễn Anh
T về tội “cố ý gây thương tích”. Quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự;
Trên cơ sở kết quả điều tra, đã xác
định được như sau:
Tối
ngày 15-01-2013, Triệu Trường S, Nguyễn Anh T cùng với một nhóm bạn vào ăn đêm
tại quán Hiền Lương gần khách sạn 5 tầng thuộc tổ 19, phường Hoàng Văn T, thành
phố TN thì gặp Phạm Việt A (là người quen của S) đang ăn tại quán bên cạnh. A
sang ngồi uống rượu cùng với nhóm của S và kể chuyện có em vợ tên là L bị
nghiện ma túy, bỏ nhà đi đã mấy hôm và nhờ cả nhóm tìm giúp, S nhận lời.
Khoảng
01 giờ 30 phút ngày 16-01-2013, sau khi ăn uống xong, S,T,A và các bạn của S đi
trên hai xe ô tô đến khu vực bến xe khách TN để tìm L. Khi đi đến đầu ngõ 108
giáp với đường Lương Ngọc Q, thấy có hai người lái xe ôm đang chờ khách, S dừng
xe lại và hỏi nơi bán Heroin. Anh Phạm Quang H (là người lái xe ôm) trả lời là
không biết và bảo S đi lên dốc mà hỏi thì S chửi anh H, dẫn đến hai bên cãi
nhau. S xuống xe xông vào đấm, đá anh H, đồng thời hô to “đánh chết mẹ nó đi”;
T cũng xuống xe và xông vào đánh anh H. Anh H chống đỡ lại, T liền rút dao nhọn
(loại dao gấp, cả cán và lưỡi dao dài khoảng 20 cm) ở trong túi quần ra đâm
nhiều nhát vào bụng anh H. Anh H bỏ chạy về phía chợ ĐQ.
Cùng
lúc này, V (người trong nhóm bạn của S) nhìn thấy anh Nguyễn Văn N (bị bệnh tâm
thần) đang ngồi cạnh trạm điện thoại công cộng
phía cổng bến xe khách TN, trên tay cầm một viên gạch nhìn về phía bọn S; V, S liền gọi đồng bọn
đến đánh N. T
chạy đến chỗ anh N thì anh N bỏ chạy; S cầm gạch ném trúng vào vùng đầu anh N,
còn T đuổi kịp anh N và dùng dao đâm vào bụng anh N.
Vật chứng thu giữ gồm:
01 con
dao nhọn (loại dao gấp) bằng kim loại, chiều dài cả cán và lưỡi dao khoảng 20 cm
01 viên
gạch mà bị can đã dùng để gây án.
Anh
Phạm Quang H và anh Nguyễn Văn N bị thương nặng, được đưa đi cấp cứu và điều
trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh TN, đến ngày 28-01-2013 thì ra viện.
Cơ quan CSĐT - Công an
tỉnh TN ra Quyết định trưng cầu giám định: Mức độ thương tích của anh Nguyễn
Văn N và anh Phạm Quang H. Tại các Bản giám định pháp y số 51 ngày 21-01-2013 và số 76
ngày 09-02-2013, Tổ chức giám định pháp y tỉnh TN kết luận : anh Nguyễn Văn N
bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 61%, anh Phạm Quang H bị thương tích với
tỷ lệ thương tật là 64%.
Trong
quá trình điều tra vụ án, Triệu Trường S đã bồi thường cho anh Nguyễn Văn N
15.000.000 đồng.
Tại Cơ quan CSĐT -
Công an tỉnh TN, các bị can Nguyễn Anh
T và Triệu Trường S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận
tội của các bị can phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được
và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.
Từ những
chứng cứ và tình tiết nêu trên đã có đủ cơ sở:
KẾT LUẬN
Do là
bạn bè với Phạm Việt A, Triệu Trường S, Nguyễn Anh T nhận lời đi tìm e vợ của A
bỏ nhà đi. Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 16-01-2013, sau khi ăn uống xong, S,T,A
và các bạn của S đi trên hai xe ô tô đến khu vực bến xe khách TN để tìm L. Khi
đi đến đầu ngõ 108 giáp với đường Lương Ngọc Q, S xô xát với anh Phạm Quang H (
là người lái xe ôm), S và đồng bọn là T xông vào đánh anh H, T dung dao nhọn
mang theo đâm nhiều nhát vào bụng anh H, gây thương tích nặng cho anh H ( kết luận gaism định là 64%). Khiến anh
H phải bỏ chạy về phía chợ ĐQ. Cùng thời điểm này, do lầm tưởng rằng anh Nguyễn
Văn N là bạn của anh H, S cùng với T dùng gạch, dao xông đến đánh anh N, gây
thương tích 61% cho anh N
Triệu
Trường S và Nguyễn Anh T, đã cố ý thực hiện hành vi dùng vũ lực và dao đánh anh
Phạm Quang H và anh Nguyễn Văn N, vào ngày 16-01-2013, gây thương tích cho anh Phạm Quang H là 64% tại ngõ 108 giáp với đường Lương Ngọc Q và anh
Nguyễn Văn N là 61% tại cổng bến xe
khách TN.
XEM THÊM: THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN
Như vậy đã có đủ căn
cứ để xác định các bị can có lý lịch dưới đây phạm tội như sau:
LÝ LỊCH BỊ CAN
1 – Họ và tên : Triệu Trường S – sinh năm 1979
-
Đăng ký hộ khẩu thường trú : Tổ 17, phường HVT, thành phố TN,
tỉnh TN.
-
Dân tộc : Kinh; Quốc
tịch : Việt Nam; Tôn giáo : Không.
-
Trình độ văn hóa : 12/12.
-
Nghề nghiệp : Công nhân bưu điện tỉnh TN.
-
Con ông: Triệu Xuân X (đã chết).
-
Con bà : Hứa Thị M – sinh năm 1954.
-
Gia đình có 4 chị em, bị can là con thứ 3.
-
Vợ : Nguyễn Thị G: sinh 1980, bị can có hai con, con lớn sinh
năm 2002, con nhỏ sinh năm 2004.
-
Tiền án, tiền sự : Không.
-
Bị can bị tạm giam tại trại tạm giam CA tỉnh TN từ ngày
25/03/2012 đến nay.
-
Số giam: 1518D2/18+10.
2 – Họ và tên: Nguyễn
Anh T – sinh năm 1978.
-
Đăng kí hộ khẩu thường trú tại: Tổ 16- phường HVT- thành phố
TN, tỉnh TN.
-
Dân tộc : Kinh; Quốc tịch : Việt Nam; Tôn giáo : không.
-
Trình độ văn hóa : 10/12.
-
Nghề nghiệp : Lao động tự do.
-
Con ông: Nguyễn Văn B – sinh năm 1954.
-
Con bà: Hoàng Thị R (đã chết).
-
Gia đình có hai anh em, bị can là con thứ hai.
-
Vợ : Đinh Thị S- sinh năm 1981, bị can có hai con, con lớn
sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2006.
-
Tiền án, tiền sự: Năm 2006 bị Tòa án nhân dân Thành phố TN xử
phạt 2 năm tù cho hưởng án treo về tội trộm cắp tài sản.
-
Bị can bị tam giam tại trại tạm giam CA tỉnh TN từ ngày
25/03/2012 đến nay.
-
Số giam: 1519D3/19+21.
Hành
vi nêu trên của Triệu Trường S và Nguyễn Anh T đã phạm vào tội “cố ý gây thương
tích” , thuộc trường hợp dùng hung khí nguy hiểm, quy định tại Khoản 3 Điều 104
Bộ luật hình sự năm 1999.
Hành vi của các bị can: Triệu Trường S, Nguyễn Anh
T nêu trên phạm vào tội tội “cố ý gây thương tích” , thuộc
trường hợp dùng hung khí nguy hiểm, quy định tại Khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình
sự năm 1999.Tội danh và hình phạt được quy định như
sau:
Điều
104 Bộ luật hình sự về “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác” quy định:
1.
Người nào cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 31% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm
hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a)
Dùng hung khí nguy hiểm hoặc
dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b)
...
2.
...
3.
Phạm tội gây thương tích, gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn
đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy
định tại các điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến
mười lăm năm.
Trong vụ án này:
Đối
với nhóm bạn của S, do không xúi dục, thực hiện hành vi gây thương tích cho anh
H và anh N, do vậy không xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đối
với việc bồi thường cho anh Phạm Quang H và anh Nguyễn Văn N: căn cứ vào tỉ lệ
thương tích, căn cứ vào yêu cầu bồi thường cũng như các chi phí cho điều trị
vết thương và các chi phí có lien quan do các đối tượng Triệu Trường S, Nguyễn
Anh T bồi thường theo quy định của pháp luật.
Về vật chứng của vụ
án gồm:
- 01 01 con dao nhọn (loại dao gấp) bằng kim loại, chiều dài cả
cán và lưỡi dao khoảng 20 cm
- 01
viên gạch mà bị can đã dùng để gây án.
Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh TN ra quyết định chuyển toàn bộ vật chứng đến Cục Thi hành án dân sự tinh
TN để bảo quản, xử lý theo quy định.
Vì
các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Truy
tố ra trước Tòa án nhân dân tỉnh TN, để xét xử Triệu Trường S và Nguyễn Anh
T (có lý lịch nêu trên), về tội “cố ý gây thương tích”, theo Điều 104 khoản
3 Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kèm
theo Bản cáo trạng này hồ sơ vụ án gồm có 80 tờ, được đánh số thứ tự (bút lục)
từ 01 đến 80.
Bảng
thống kê vật chứng.
Danh
sách những người được triệu tập đến phiên tòa.
Nơi nhận VIỆN TRƯỞNG
-
VKSND Tối Cao
-
Cơ quan điều tra CA tỉnh TN.
- Bị
can.
- Hồ
sơ vụ án.
- Hồ
sơ KS.
-
Lưu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét