Bài làm
Trong các mối quan hệ nghề
nghiệp của luật sư, mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng là mối quan hệ nền
tảng. Khách hàng tìm đến luật sư thường là những người có các vấn đề, rắc rối
về mặt pháp lý hoặc những người muốn đề phòng những rủi ro pháp lý. Để giải
quyết vấn đề của khách hàng, điều kiện tiên quyết là luật sư cần phải biết
những thông tin về khách hàng, thông tin về vụ việc mà khách hàng đang gặp
phải. Để có được thông tin từ khách hàng, luật sư phải là người đáng tin cậy để
khách hàng có thể chia sẻ thành thật. Để tạo được sự tin cậy cho khách hàng,
luật sư không chỉ có chuyên môn, có kỹ năng nghề nghiệp mà luật sư còn phải đảm
bảo với khách hàng về việc giữ bí mật thông tin của họ. Có thể nói việc giữ bí
mật thông tin về khách hàng của luật sư là quy tắc rất quan trọng trong hoạt
động nghề nghiệp của luật sư. Sau đây em xin chọn vấn đề “Nguyên tắc đảm bảo giữ bí mật thông tin của khách hàng trong hoạt động
tư vấn pháp luật dân sự” làm đề tài cho bài tiểu luận của mình.
I. TƯ VẤN PHÁP
LUẬT VÀ VIỆC GIỮ BÍ MẬT THÔNG TIN VỀ KHÁCH HÀNG
1. Tư vấn pháp
luật.
Tư vấn pháp luật là việc Luật
sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan
đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ (Điều 28 Luật Luật sư); hoặc nói cách
khác, tư vấn pháp luật là “Phát biểu những ý kiến về những vấn đề do khách hàng
đặt ra trên cơ sở các văn bản pháp luật mà không có quyền quyết định”, giúp
khách hàng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Như vậy, tư vấn pháp luật
chính là việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn ứng xử đúng pháp luật, cung cấp
dịch vụ pháp lý nhằm giúp công dân, tổ chức trong và ngoài nước thực hiện, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Nhìn dưới góc độ Luật sư, tư
vấn pháp luật là: Đưa ra một giải pháp pháp lý cho một tình huống cụ thể; Hướng
dẫn khách hàng ứng xử đúng pháp luật.
Theo nghĩa rộng, tư vấn pháp
luật còn là cung cấp các dịch vụ pháp lý khác sau tư vấn. Ví dụ: đại diện cho
khách hàng thực hiện một công việc cụ thể, tham gia tố tụng tại Tòa án, v.v…
* Đặc điểm cơ bản của tư vấn
pháp luật là:
- Về phía khách hàng: là
người mang đến tình huống pháp luật đòi hỏi có sự tham gia của luật sư để làm
sáng tỏ vấn đề.
- Về phía Luật sư: dựa trên
những tình huống, thông tin mà khách hàng cung cấp, Luật sư thông tin, chỉ dẫn
cho khách hàng một hành lang an toàn pháp lý.
Do đó, Luật sư cần phải:
- Chỉ dẫn, đưa ra lời khuyên
(chính kiến của Luật sư);
- Chỉ ra những điểm mạnh và
điểm yếu của khách hàng (rủi ro);
- Đánh giá mức độ rủi ro để
khuyên khách hàng hành động hay không hành động;
- Đưa ra những giải pháp cụ
thể cho khách hàng lựa chọn.
Mục tiêu của tư vấn là:
- Giải pháp tư vấn phải mang
lại hiệu quả kinh tế;
- Trong đời sống giao dịch
thì đó là hành lang an toàn pháp lý, tiên liệu được rủi ro, đề ra được giải
pháp thực hiện nhằm tránh hoặc hạn chế rủi ro;
- Yêu cầu đặt ra trong khi tư
vấn là các bên phải tuân thủ pháp luật, nguyên tắc đạo đức và ứng xử của nghề
Luật sư, độc lập, khách quan, tôn trọng sự thật, trung thực… trên cơ sở mọi vấn
đề đều phải được giải quyết căn cứ theo pháp luật.
Tuy nhiên, cuộc sống luôn đa
dạng và phức tạp hơn những dự liệu của điều luật nên Luật sư cần biết vận dụng
nguyên tắc “công dân được phép làm những gì pháp luật không cấm”. Đồng thời, khi
tư vấn pháp luật, luật sư cần đưa ra nhiều tình huống dự liệu đề phòng những
trường hợp bất trắc có thể xảy ra.
2. Việc giữ bí
mật thông tin về khách hàng
2.1.
Khái niệm thông tin về khách hàng
Thông tin về khách hàng hay
thông tin của khách hàng hay nói chung là thông tin khách hàng là những tin
tức, thông điệp khách hàng truyền đạt cho luật sư trong quá trình tiếp xúc,
trao đổi giữa luật sư và khách hàng hoặc do luật sư biết được, thu thập được
trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ việc của khách hàng.
Thông tin về khách hàng là
những thong tin như: thông tin cá nhân của khách hàng, bí mật đời tư của khách
hàng, tình hình tài chính, bí mật kinh doanh,... mà khách hàng đã nói, viết,
trao đổi, truyền đạt, tiết lộ cho luật sư biết hoặc do luật sư thu thập được
bằng các biện pháp hợp pháp trong quá trình giải quyết vụ việc.
XEM THÊM: THÀNH LẬP CÔNG TY TNHH
2.2. Khái niệm giữ bí mật thông tin
về khách hàng
Có thể định nghĩa vấn đề luật
sư giữ bí mật thông tin về khách hàng như sau: Giữ bí mật thông tin về khách
hàng trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư là nghĩa vụ pháp lý và quy tắc đạo
đức nghề nghiệp của luật sư, theo đó luật sư giữ kín những thông tin luật sư
biết được về khách hàng, liên quan đến khách hàng trong quá trình giải quyết vụ
việc và không tiết lộ cho bất kỳ người nào khác ngoài luật sư và khách hàng.
Từ định nghĩa trên, có thể
rút ra một số đặc điểm trong việc giữ bí mật thông tin về khách hàng của luật
sư. Thứ nhất, việc giữ bí mật thông tin về khách hàng của luật sư là hoạt động
xuất phát từ hoạt động nghề nghiệp của luật sư, xuất phát từ dịch vụ pháp lý
giữa luật sư với khách hàng. Thứ hai, nguồn thông tin về khách hàng rất đa
dạng, có thể do khách hàng cung cấp hoặc do luật sư thu thập hoặc từ nguồn khác
mà luật sư biết được. Thứ ba, giữ bí mật thông tin về khách hàng trong hoạt
động nghề nghiệp của luật sư vừa là nghĩa vụ pháp lý vừa là quy tắc đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp của luật sư, hay nói cách khác là vừa mang tính bắt buộc vừa
mang tính tự nguyện. Thứ tư, giữ bí mật thông tin về khách hàng trong hoạt động
nghề nghiệp của luật sư là hoạt động mang tính tín nhiệm, tin cậy: khách hàng
tín nhiệm luật sư mới có thể thành thật, thẳng thắn trình bày các thông tin của
mình; ngược lại luật sư giữ bí mật thông tin về khách hàng để tạo sự tin cậy.
II. NGUYÊN TẮC GIỮ BÍ MẬT THÔNG TIN
CỦA KHÁCH HÀNG TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN PHÁP LUẬT.
1. Những thông
tin về khách hàng mà luật sư phải giữ bí mật
Khoản 1 Điều 25 Luật Luật sư
2006 quy định: “Luật sư không được tiết
lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề”.
Theo quy tắc 12 trong Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt
Nam thì: “Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật
thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý”. Quy định này rất
chung chung, không xác định rõ thông tin nào của khách hàng phải được luật sư
giữ bí mật. Do vậy, luật sư cần thỏa thuận với khách hàng để xác định những
thông tin nào cần được bảo mật thì giới hạn bảo mật của luật sư được thực hiện
theo thỏa thuận đó và không ràng buộc nghĩa vụ bảo mật của luật sư đối với
những thông tin khác về khách hàng (ngoài sự thỏa thuận). Trường hợp không có
thỏa thuận như vậy, hoặc khách hàng không đồng ý thỏa thuận như vậy thì luật sư
có nghĩa vụ bảo mật tất cả các thông tin về khách hàng, bất kể thông tin ấy
luật sư có được từ nguồn nào. Chỉ có như vậy mới bảo vệ tốt nhất quyền lợi của
khách hàng trong mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng, nâng cao tinh thần
trách nhiệm của luật sư đối với thông tin về khách hàng. Tuy vậy, cũng cần chú
ý là luật sư chỉ bảo mật tất cả các thông tin mà luật sư biết được về khách
hàng trong mối quan hệ nghề nghiệp với khách hàng, thực hiện dịch vụ pháp lý
cho khách hàng; luật sư không có nghĩa vụ giữ bí mật những thông tin về khách
hàng mà luật sư biết được trước khi “quan hệ nghề nghiệp” với khách hàng hoặc
sau khi đã kết thúc vụ việc với khách hàng.
Trong việc giữ bí mật thông
tin về khách hàng, luật sư cần chú ý tìm hiểu các quy định pháp luật về giữ bí
mật thông tin có liên quan đến khách hàng của mình. Chẳng hạn, đối với khách
hàng là cá nhân, luật sư cần tuân thủ quy định về bí mật đời tư; khách hàng là
doanh nhân hoặc doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, luật sư cần tuân thủ các quy
định về bí mật kinh doanh,...
Quyền bí mật đời tư được quy
định tại Điều 38 Bộ luật Dân sự:
“1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được
pháp luật bảo vệ.
2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá
nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực
hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã
thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập,
công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin
điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức
thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có
quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
Bí mật kinh doanh được định
nghĩa tại khoản 23 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009): “Bí
mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ,
chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh”. Bộc lộ, sử dụng bí
mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh là hành vi
xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh được quy định tại điểm b khỏan 1 Điều
127 Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009).
Trong thực tế, có thể có
những vụ việc, khách hàng của luật sư là những người nổi tiếng hay khách hàng
của luật sư là đối tượng có liên quan trong những vụ việc trọng điểm, thu hút
sự quan tâm của dự luận; các phương tiện thông tin đại chúng đã công bố thông
tin về khách hàng, thông tin về vụ việc đó. Trong trường hợp này, luật sư vẫn
phải thực hiện giữ bí mật thông tin về khách hàng và phải được thực hiện một
cách thận trọng; Tùy trường hợp cụ thể mà luật sư có hướng giải quyết và thực
hiện nghĩa vụ giữ bí mật thông tin về khách hàng khác nhau. Chẳng hạn, nếu các
phương tiện thông tin đại chúng đã công bố thông tin về vụ việc trước khi luật
sư nhận thực hiện dịch vụ pháp lý từ khách hàng thì như phân tích ở trên, luật
sư không có nghĩa vụ bảo mật nhưng thông tin đã được công bố trước đó mà chỉ
bảo mật những thông tin về khách hàng từ thời điểm luật sư nhận vụ việc. Nghĩa
vụ của luật sư lúc này là không tiết lộ thêm thông tin về khách hàng, trừ
trường hợp được sự đồng ý của khách hàng để tiết lộ những thông tin có lợi cho
khách hàng và tranh thủ được sự đồng tình của dư luận. Có thể luật sư của những
khách hàng trong những vụ việc này còn được mời phỏng vấn, phát biểu quan điểm.
Khi đó, luật sư chỉ được phát biểu trên nguyên tắc “bảo vệ tốt nhất quyền lợi
của khách hàng” và chỉ phát biểu trên cơ sở những thông tin về khách hàng, liên
quan đến vụ việc đã được công bố, tuyệt đối tránh vô tình tiết lộ các thông tin
khác về khách hàng, về vụ việc nếu chưa được sự đồng ý của khách hàng. Trong
nhiều trường hợp, luật sư cần xem xét từ chối phát biểu trước các phương tiện
truyền thông mà chỉ phát biểu trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền yêu cầu
hoặc khi vụ việc đưa đưa ra giải quyết chính thức.
2. Thời gian
giữ bí mật thông tin khách hàng
Việc giữ bí mật thông tin về
khách hàng của luật sư là không có sự giới hạn về thời gian. Luật sư có trách
nhiệm giữ bí mật thông tin về khách hàng trong lúc đang thụ lý giải quyết vụ
việc cho đến khi vụ việc đã kết thúc.
Quy tắc 12 Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam
quy định rõ: “Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực
hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó”. Như phần trên cũng có
đề cập, khi kết thúc vụ việc, luật sư vẫn có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin về
khách hàng nhưng đó là những thông tin mà luật sư biết được trong lúc giải
quyết vụ việc cho khách hàng, còn những thông tin mới mà luật sư biết được sau
khi đã kết thục vụ việc với khách hàng thì luật sư không có nghĩa vụ bảo mật.
Một vấn đề đáng lưu ý là Quy
tắc 12 Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam quy định luật
sư vẫn tiếp tục giữ bí mật thông tin của khách hàng “cả khi đã kết thúc dịch vụ
đó” mà không đề cập đến tình trạng của khách hàng, còn sống hay đã chết (đối
với cá nhân), còn hoạt động hay đã chấm dứt hoạt động (đối với tổ chức). Như
vậy, kể cả khi khách hàng trước đây của luật sư đã chết, không còn hoạt động
thì luật sư vẫn phải giữ bí mật thông tin của những khách hàng đó.
3. Việc giữ bí
mật của nhân viên, cộng sự của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư
Trong một tổ chức hành nghề
luật sư, không chỉ bản thân luật sư tiếp nhận, thụ lý giải quyết vụ việc của
khách hàng phải giữ bí mật thông tin về khách hàng mà các luật sư khác trong
cùng tổ chức hành nghề luật sư cũng phải giữ bí mật thông tin về khách hàng của
tổ chức mình. Đây là quy định tại khoản 3 Điều 25 Luật Luật sư 2006: “Tổ chức hành nghề luật sư có trách nhiệm bảo
đảm các nhân viên trong tổ chức hành nghề không tiết lộ thông tin về vụ, việc,
về khách hàng của mình” và Quy tắc 12 Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
của luật sư Việt Nam: “luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên
quan và nhân viên của mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ
biết được và giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật”.
Đây cũng là quy định hợp lý
và phù hợp với quy tắc ứng xử chung của luật sư nhiều nước trên thế giới. Tính
hợp lý biểu hiện ở chỗ đối với tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức này có tư
cách pháp nhân và thực hiện kinh doanh dịch vụ pháp lý, khách hàng không phải
là khách hàng của riêng luật sư mà là khách hàng của tổ chức hành nghề luật sư
đó. Do đó, tổ chức hành nghề luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin về khách
hàng, cụ thể không chỉ luật sư trực tiếp giải quyết vụ việc mà các luật sư khác
trong cùng tổ chức hành nghề luật sư đó cũng phải giữ bí mật thông tin về khách
hàng của tổ chức mình. Luật sư trực tiếp tiếp xúc và người đứng đầu, người quản
lý tổ chức hành nghề luật sư đó phải yêu cầu các nhân viên, luật sư của tổ chức
mình đảm bảo bí mật thông tin về khách hàng.
4. Một số ngoại
lệ trong việc giữ bí mật thông tin về khách hàng
Luật Luật sư 2006 và Quy tắc
ứng xử đạo đức nghề nghiệp Luật sư Việt Nam vẫn quy định một số ngoại lệ trong
việc giữ bí mật thông tin về khách hàng. Theo đó, luật sư không bị ràng buộc
bởi các nguyên tắc về bảo mật đối với thông tin về khách hàng như đã phân tích
ở trên. Khoản 1 Điều 25 Luật Luật sư 2006 quy định: “Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình
biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn
bản hoặc pháp luật có quy định khác”. Quy tắc đạo đức và ứng xử nghể nghiệp
của luật sư Việt Nam cũng quy định: “Luật
sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp
lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc
theo quy định của pháp luật”.
Mặc dù Quy tắc đạo đức và ứng
xử nghề nghiệp của Luật sư không quy định nhưng theo Luật Luật sư 2006, trong
trường hợp luật sư tiết lộ thông tin theo sự đồng ý của khách hàng thì sự đồng
ý đó phải thể hiện bằng văn bản.
Tiết lộ thông tin theo quy
định của pháp luật là trường hợp pháp luật có quy định nghĩa vụ buộc phải khai
báo hoặc cung cấp thông tin phục vụ hoạt động điều tra, xác minh của cơ quan có
thẩm quyền. Trong những trường này, luật sư buộc phải tiết lộ thông tin để thực
hiện nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn như quy định về
tố giác tội phạm. Khoản 1 Điều 22 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009)
quy định:“Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện
hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội không tố giác tội phạm trong những trường hợp quy định tại Điều 313 của Bộ
luật này”. Theo đó, công dân có nghĩa vụ tố giác tội phạm, nếu không tố giác có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu luật sư tố cáo khách hàng của mình để
họ bị bắt thì luật sư sẽ mất đi sự tin tưởng của khách hàng, có thể ảnh hưởng
rất lớn đến sự nghiệp.
Trong trường hợp này, trước
hết luật sư cần giải thích quy định của pháp luật cho khách hàng đó hiểu về
hành vi tội phạm mà họ đã thực hiện cũng như chính sách khoan hồng, các tình
tiết giảm nhẹ. Trên cơ sở đó, luật sư khuyên giải họ đầu thú. Tuy vậy, nếu
khách hàng không đồng ý đầu thú và yêu cầu luật sư phải bảo mật thông tin đó
của họ thì luật sư có hai lựa chọn: Một là “rút lui”, từ chối tiếp tục thực
hiện vụ việc cho khách hàng đó, luật sư có thể vận dụng quy tắc 9.2.2 Quy tắc
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư để từ chối, sau đó luật sư có thể
khéo léo thực hiện nghĩa vụ công dân của mình theo quy định của pháp luật. Hai
là, luật sư vẫn tiếp tục giải quyết vụ việc của khách hàng. Trong trường này,
luật sư cần báo cáo với Đoàn luật sư của mình để Đoàn luật sư có chỉ đạo, tìm
hướng giải quyết phù hợp. Đồng thời luật sư cũng cần có những hành động cần
thiết để can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm để đề phòng
rủi ro cho mình theo quy định tại khoản 3 Điều 314 Bộ luật Hình sự: “Người
không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại
của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt”.
III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Thứ nhất, đối với việc luật
sư biết được khách hàng của mình đã có hành vi phạm tội, đảm bảo quy tắc đặc
thù của nghề luật sư là “giữ bí mật thông tin về khách hàng”, cần quy định luật
sư chỉ phải tố giác nếu khách hàng của luật sư là người phạm tội về an ninh
quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ hai, Liên đoàn luật sư
Việt Nam cần có hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện quy tắc “giữ bí mật thông
tin” cũng như toàn bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư để dễ
dàng áp dụng thống nhất. Ngoài ra, Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng cần nhanh
chóng hoàn chỉnh và cho ban hành Quy định về xử lý kỷ luật đối với Luật sư
trong trường hợp luật sư vi phạm Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, trong
đó có sự vi phạm quy tắc “giữ bí mật thông tin”.
Thứ ba, đối với mỗi luật sư,
cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất, tuân thủ nghĩa vụ và quy
tắc “giữ bí mật thông tin về khách hàng”. Đối với các thông tin của khách hàng,
luật sư cần bảo quản thận trọng, có các biện pháp bảo mật đối với thông tin
khách hàng, thực hiện lưu trữ nghiêm túc. Để tránh rủi ro và loại trừ trách
nhiệm cho mình, tốt nhất luật sư nên có thỏa thuận cụ thể với khách hàng về
việc giữ bí mật thông tin; trong trường hợp muốn tiết lộ thông tin nào đó, luật
sư cần phải xin phép khách hàng và phải được khách hàng đồng ý bằng văn bản.
E hỏi ngoài lề với.
Trả lờiXóaHiện nay ở Việt Nam có khá ít công ty cung cấp giải pháp nên giá cả hơi đắt và khó tìm. Bạn biết chỗ nào rẻ không ?