Thứ Ba, 28 tháng 6, 2016

Chứng minh rằng quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định về cách xác định và quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế trong luật biển quốc tế thể hiện rõ sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia



A.    ĐẶT VẤN ĐỀ
Thực tế đã chứng minh rằng, biển đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với mỗi quốc gia về nhiều mặt như: kinh tế, an ninh - quốc phòng... Đặc biệt, kể từ nửa sau của thế kỉ XX cho đến nay thì điều này càng đúng khi mà đất liền dường như ngày càng trật hẹp không thể đáp ứng được các yêu cầu về dân dân số, năng lượng cũng như môi trường…Vì thế, biển và đại dương đã trở thành miền đất hứa cho tất cả các quốc gia. Trong bối cảnh đó, tất cả các nước đặc biệt là các cường quốc có tiềm lực mạnh về kinh tế, khoa học kĩ thuật hiện đại, công nghiệp hàng hải phát triển đều có xu hướng “ tiến ra biển”, tăng cường tiềm lực mọi mặt để khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lợi từ biển. Điều này đã dẫn đến nhiều tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích giữa các quốc gia đặc biệt là giữa các quốc gia phát triển và quốc gia đang phát triển, giữa các quốc gia có biển và các quốc gia không có biển hay có vị trí địa lý bất lợi về biển. Tình hình này đặt ra yêu cầu phải cho ra đời một vùng biển mà ở đó lợi ích của các quốc gia đều được dung hòa – vùng đặc quyền kinh tế, được quy định cụ thể trong công ước luật biển 1982. Với mong muốn có thêm những hiểu biết sâu rộng hơn nữa về vấn đề nói trên, e xin đi sâu phân tích đề tài số 1 “Chứng minh rằng quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định về cách xác định và quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế trong luật biển quốc tế thể hiện rõ sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia”.
Do kiến thức cũng như kĩ năng làm bài còn nhiều hạn chế hẳn bài làm còn nhiều thiếu sót nên em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài làm được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
xêm thêm:thành lập công ty TNHH 

B.     NỘI DUNG
I.         Lý luận chung
1.        Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế
Vùng đặc quyền kinh tế là một vấn đề mới được đặt ra trong thực tiễn pháp lý quốc tế từ những năm 70 của thế kỷ XX tại Hội nghị về Luật biển quốc tế lần thứ III. Vùng biển này ra đời xuất phát từ lợi ích, nhu cầu của các nước đang phát triển có biển đấu tranh nhằm mở rộng quyền của mình trong lĩnh vực kinh tế, về bảo tồn, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội. Trái lại, các nước công nghiệp phát triển lại tỏ ra chống đối khuynh hướng này vì việc thiết lập vùng đặc quyền kinh tế thì lợi ích của các quốc gia này bị giảm xuống do biển quốc tế sẽ bị thu hẹp lại.
Trải qua quá trình đấu tranh cam go, phức tạp trong các hội nghị, Công ước Luật biển 1982 đã ra đời và cho một khái niệm thống nhất về vùng đặc quyền kinh tế như sau: vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải có chiều rộng không vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải (Điều 55, Điều 57 Công ước luật biển 1982 ). Vùng này đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần V – Vùng đặc quyền kinh tế của Công ước luật biển 1982. Vùng đặc quyền kinh tế không tồn tại một cách đương nhiên đối với mỗi quốc gia ven biển mà nó chỉ có thể trở thành hiện thực thông qua tuyên bố đơn phương hoặc thỏa thuận của các quốc gia hữu quan.
2.      Sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia.
Sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia được hiểu là các quốc gia đã có sự nhân nhượng nhau về lợi ích, từ chỗ quan điểm khác xa thậm chí đối lập nhau cùng hướng tới tạo dựng những quan điểm chung, thống nhât về một vấn đề để sao cho đưa ra được một quyết định cùng có lợi nhất cho tất cả các bên.
3.   Cơ sở của sự dung hòa lợi ích giữa các quốc gia trong vùng đặc quyền kinh tế.
Về bản chất, các nguyên tắc, các quy phạm của luật quốc tế được xây dựng trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế mà chủ yếu là các quốc gia. Khi tham gia vào quan hệ quốc tế các quốc gia có địa vị hoàn toàn độc lập và bình đẳng, do đó, không một quốc gia hay một cơ quan lập pháp nào có quyền đặt ra pháp luật bắt quốc gia phải thực hiện. Sự thỏa thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế nói chung và giữa các quốc gia nói riêng để xây dựng nên các quy phạm pháp luật quốc tế có thể bằng hai phương pháp: Một là phương pháp thỏa thuận rõ ràng minh bạch thông qua việc kí kết các điều ước quốc tế; Hai là phương pháp thỏa thuận ngầm định thông qua việc các chủ thể cùng thừa nhận những quy tắc xử sự chung hình thành trong thực tiễn sinh hoạt quốc tế. Mặc dù có sự khác nhau về phương thức hình thành nhưng nguyên tắc chung, xuyên suốt quá trình xây dựng pháp luật chính là sự thỏa thuận chủ thể của luật quốc tế. Và sự hình thành Luật biển quôc tế trong đó có những quy định về vùng đặc quyền kinh tế cũng không nằm ngoài nguyên tắc thỏa thuận này. Quá trình thỏa thuận thể hiện tương quan lực lượng và tương quan lợi ích giữa các quốc gia. Trong đó mỗi quốc gia đều có quyền đưa ra quan điểm, ý kiến của mình đồng thời có tính đến lợi ích của các quốc gia khác mà không có bất cứ một sự áp đặt nào. Như vậy, nguyên tắc thỏa thuận trong luật quốc tế chính là cơ sở cho sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia trong vùng đặc quyền kinh tế.
II. Quá trình xây dựng, hoàn thiện những quy định về cách xác định và quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế thể hiên sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia
1.        Quá trình xây dựng, hoàn thiện những quy định về cách xác định của vùng đặc quyền kinh tế thể hiện sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia.
       Theo sự ghi nhận tại điều 55 và Điều 57 Công ước luật biển 1982 thì cách xác định vùng đặc quyền kinh tế được quy định là vùng nằm phía ngoài của lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, có chiều rộng không quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải. Cách xác định với vị trí và chiều rộng như vậy chính là kết quả của cả một quá trình đấu tranh, thương thuyết lâu dài đồng thời thể hiện sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia.
       Khái niệm, sự hình thành của vùng đặc quyền kinh tế mà trước nhất là cách xác định của vùng này có xuất phát điểm là những hành vi mang tính chất đơn phương mà khởi đầu là sự kiện ngày 28/9/1945 tổng thống Mĩ Truman đưa ra tuyên bố về nghề cá ven bờ trong một số vùng của biển cả bên ngoài lãnh hải ba hải lý, theo đó Mĩ sẽ thiết lập một “ vùng bảo tồn một phần nhất định của biển cả tiếp liền với bờ biển của nước Mĩ, tại đó các hoạt động đánh cá đã và sẽ được phát triển trong tương lai tới một mức độ quan trọng”.
       Sau  tuyên bố của Tổng thống Mĩ Truman, nhiều quốc gia như Chile, Peru sau đó là Brazin, Arhentina, Mehico…cũng đơn phương khẳng định thẩm quyền riêng biệt đối với vùng biển ven bờ và đưa ra yêu sách chiều rộng lãnh hải tới 200 hải lý. Yêu sách này gặp phải sự phản đối từ phía các cường quốc hàng hải – những nước có chủ trương hạn chế tối đa sự mở rộng quyền lực ra phía biển của các quốc gia ven biển nhằm bảo vệ các quyền tự do biển cả truyền thống. Sự trái ngược trong quan điểm giữa các quốc gia về chiều rộng của vùng đặc quyền kinh tế là rất dễ hiểu, nó xuất phát từ mục đích bảo vệ lợi ích của các quốc gia: các cường quốc hàng hải có tiềm lực mạnh về kinh tế, khoa học kĩ thuật, có khả năng khai thác được nhiều tài nguyên thiên nhiên biển tất nhiên mong muốn vùng đặc quyền kinh tế - nơi có sự hiện diện quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển sao cho hẹp nhất để vùng biển truyền thống - nơi các cường quốc này được tự do khai thác tài nguyên biển sẽ càng lớn. Trái lại, các quốc gia ven bờ đang phát triển hay kém phát triển lại mong muốn có một vùng đặc quyền kinh tế rộng nhất có thể để một mặt đảm bảo an toàn cho quyền khai thác tài nguyên biển, trước hết là quyền khai thác cá của họ mà không lo ngại đến việc phải tranh chấp với các quốc gia khác, mặt khác cho phép các nước này có một “hành lang” ngoài biển  bảo vệ, phòng thủ đất nước… Đối với các nước Á – Phi, chính sách mở rộng biển  thể hiện ở mức độ mềm dẻo nhất định mang tính chất cần bằng giữa hai cực.
       Trải qua nhiều vòng đàm phán, thương lượng, khái niệm vùng đặc quyền kinh tế với cách xác định là một vùng nằm phía ngoài của lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải có chiều rộng không vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải đã được công nhận như một tập quán quốc tế sau đó được quy định cụ thể tại điều 55 và Điều 57 Công ước luật biển 1982. Có thể thấy rằng, quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định về cách xác định vùng đặc quyền kinh tế nói trên đã thể hiện rõ sự dung hòa về quyền lợi giữa các quốc gia. Thể hiện ở hai điểm sau:
       Thứ nhất: Phương pháp để đi đến một quyết định thống nhất về cách xác đinh vùng đặc quyền kinh tế là bằng sự thỏa thuận giữa các quốc gia mà không phải sự áp đặt ý chí của các quốc gia mạnh lên các quốc gia yếu hay của số đông lên số ít.... Như đã phân tích ở phần I, bằng sự thỏa thuận trên cơ sở bình đẳng và tự nguyện, các quốc gia hữu quan có thể tự do bày tỏ quan điểm của mình nhưng phải tính đến lợi ích của các bên hữu quan để có thể đi đến một kết quả cuối cùng phù hợp với lợi ích của tất cả các bên. Do đó, quá trình thỏa thuận cũng thể hiện sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia.
       Thứ hai: Sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia thể hiện ở kết quả đạt được sự thống nhất quan điểm về cách xác định vùng đặc quyền kinh tế theo công ước Luật biển 1982. Bởi đây chính là kết quả của sự nhượng bộ lẫn nhau về lợi ích giữa hai trường phái: một là trường phái bảo vệ vùng biển truyền thống của cộng đồng quốc tế và một là trường phái tiến ra biển của các quốc gia ven bờ.
       Từ những phân tích trên ta khẳng định quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định về cách xác định vùng đặc quyền quyền kinh tế đã thể hiện sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia.
2.        Quá trình xây dựng, hoàn thiện những quy định về quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế thể hiện sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia.
·        Sự dung hòa thể hiện trong quá trình xây dừng và hoàn thiện các quy định về quy chế pháp lý trong vùng đặc quyền kinh tế
Cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định về cách xác định là quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định về quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế. Để đi đến sự thống nhất cuối cùng về quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế được ghi nhận trong Công ước luật biển 1982 là cả một quá trình đấu tranh, thỏa thuận lâu dài giữa các quốc gia với hai luồng quan điểm trái chiều. Các quốc gia ven biển thì mong muốn mình có thật nhiều quyền ở vùng đặc quyền kinh tế đồng thời loại bỏ quyền của các quốc gia khác, trái lại các cường quốc hàng hải thì muốn hạn chế tối đa các quyền này của các quốc gia ven biển. Trong khi Mĩ đưa ra đề nghị sẽ thiết lập một “ vùng bảo tồn một phần nhất định của biển cả tiếp liền với bờ biển của nước Mĩ, tại đó các hoạt động đánh cá đã và sẽ được phát triển trong tương lai tới một mức độ quan trọng nằm ngoài lãnh hải 3km thì các nước Mĩ La Tinh như Chile, Peru,Ecuado không những muốn mở rộng vùng lãnh hải ra 200 hải lý mà còn muốn loại bỏ quyền tự do hàng hải và các quyền tự do biển cả khác. Một số nước khác thì yêu cầu vùng đánh cá đặc quyền. Rõ ràng, những sự kiện trên đã thể hiện quan điểm trái chiều giữa các quốc gia trong việc thiết lập quy chế pháp lý cho vùng đặc quyền kinh tế. Trước tình hình đó, thì năm 1971, Kenya và một số quốc gia Á – Phi đã đưa ra đề nghị dung hòa hai lập trường trên: Trong vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia ven biển có “ thẩm quyền đặc biệt nhằm kiểm soát, quy định, khai thác và bảo vệ các tài nguyên sinh vật cũng nhue không sinh vật của vùng và ngăn ngừa và đấu tranh chống lại sự ô nhiễm” trong khi các quyền tự do hàng hải, tự do bay, tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm được bảo lưu. Quan điểm này nhanh chóng được chấp nhận, không gây ra sự phẩn đối nào. Và nó đã có giá trị tập quán trước khi được ghi nhận trong Công ước luật biển 1982. Như vậy, quá trình này đã thể hiện rất rõ sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia bởi nó cũng thể hiện sự nhượng bộ lẫn nhau giữa hai trường phải quan điểm vốn khác xa thậm chí đối lập nhau trước đây.
·        Sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia thể hiện trong nội dung các quy định về quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế trong Công ước luật biển 1982.
Quy chế pháp lý lý của vùng đặc quyền kinh tế được ghi nhận trong toàn bộ Phần V của Công ước luật biển 1982.mVùng đặc quyền kinh tế là một vùng có chế độ pháp lý hỗn hợp, trong đó vừa tồn tại quyền chủ quyền của quốc gia ven biển vừa tồn tại  quyền tự do biển biển cả được thừa nhận trong luật biển quốc tế. Chế độ này đã tạo nên một vùng biển mang tính chất đặc thù, tạo sự tương đồng giữa các nhóm lợi ích khác nhau – các quốc gia ven biển và các quốc gia khác ngay trong vùng đặc quyền kinh tế hay chính là sự dung hòa về quyền lợi giữa các quốc gia.
*  Quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển:
Quyền thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và dưới lòng đất dưới đáy biển: Trong vùng đặc quyền kinh tế các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và dưới lòng đất dưới đáy biển, cũng như về các hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió…ghi nhận tại điều 56 công ước Luật biển 1982. Đối với tài nguyên không sinh vật, quốc gia ven biển tự khai thác hoặc cho phép các quốc gia khác khai thác và đặt dưới quyền kiểm soát của mình. Đối với tài nguyên sinh vật, các quốc gia ven biển thi hành các biện pháp thích hợp để bảo tồn và quản lý nhằm duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình khỏi bị khái thác quá mức. Để tạo điều kiện khai thác tối ưu nguồn tài nguyên sinh vật, các quốc gia ven biển tự xác định tổng khối lượng có thể đánh bắt và đánh giá khả năng khai thác thực tế của mình. Trong trường hợp khả năng khai thác thấp hơn khối lượng cá có thể đánh bắt, quốc gia ven biển có thể cho phép các quốc gia khác khai thác số dư thông qua điều ước hoặc thỏa thuận giữa các bên, trên cơ sở ưu tiên cho các quốc gia không có biển hoặc có vị trí bất lợi về địa lý ( Điều 61,62  Công ước Luật biển 1982 ).
Quyền thiết lập các công trình thiết bị đảo nhân tạo: Quốc gia ven biển có đặc quyền trong việc xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị công trình trong vùng đặc quyền kinh tế. Quốc gia ven biển đồng thời có quyền tài phán đặc biệt đối với những công trình trên, bao gồm cả việc ban hành và đảm bảo thực thi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hải quan, thuế, y tế, an ninh và nhập cư ( Điều 56, 60 Công ước Luật biển 1982).
Quyền nghiên cứu khoa học: Việc nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế chỉ được tiến hành trên cơ sở thỏa thuận với quốc gia ven biển và không được gây trở ngại cho quốc gia ven biển trong việc thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán phù hợp với Công ước Luật biển 1982 ( Điều 56,246 Công ước Luật biển 1982)
Quyền tài phán bảo vệ môi trường biển: Công ước Luật biển 1982 còn công nhận cho quốc  gia ven biển có quyền tài phán về bảo vệ và giữ gìn môi trường biển chống lại sự gây ô nhiểm từ các nguồn khác nhau như các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán của quốc gia ( Điều 208), ô nhiễm do sự nhấn chìm ( Điều 210) và ô nhiễm do hoạt động của tài thuyền ( Điều 211). Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có quyền ban hành pháp luật và thực hiện mọi biện pháp cần thiết nhằm bảo vệ, giữ gìn môi trường biển. Tất cả các đối tượng, khi đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế dù đang thực hiện quyền tự do của mình, nếu gây ra những hậu quả xâm hại đến môi trường biển đều chịu sự tài phán của quốc gia ven biển.
Ngoài các quyền nói trên thì Công ước Luật biển 1982 cũng quy định quốc gia ven biển phải có nghĩa vụ tôn trọng các quyền cũng như nghĩa vụ của các quốc gia khác.
*  Các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác.
Theo công ước Luật biển 1982, các quốc gia khác được hưởng một số quyền sau:
Quyền tự do hàng hải và hàng không: Ngay từ khi khái niệm về vùng đặc quyền kinh tế mới hình thành thì quyền tự do giao thông cả các nước khác dù có biển hay có vị trí bất lợi về biển đã được ấn định. Việc thực hiện chủ quyền về kinh tế của các nước ven biển không làm phương hại đến việc sử dụng biển chính đáng của các nước khác. Điều 58 Công ước Luật biển nhấn mạnh “ ở vùng đặc quyền kinh tế, tất cả các nước có biển hay không có biển đều có uyền tự do hàng hải, hàng không, tự do đặt dây cáp, ống dẫn ngầm”. Tuy nhiên, khi thực hiện các quyền này các quốc gia khác cũng không được làm phương hại đến quyền và lợi ích của quốc gia ven biển.
Như vậy, chế độ tài phán đặc biệt trong vùng đặc quyền kinh tế không hề gay trở ngại cho sự tự do giao thông  hợp pháp dành cho nước ngoài trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển. Việc đặt dây cáp ống dẫn ngầm của nước ngoài trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển cũng có thể được chấp nhận. Trong tuyên bố Santodomigo có nói “ trong vùng đặc quyền kinh tế, tàu thuyền và náy bay của tất cả các nước dù có bờ biển hay không có bờ biển, đều được hưởng quyền tự do hàng hải tự do bay trên không và không có bất cứ sự bó buộc nào khác, ngoài việc nước ven biển thực hiện quyền của họ trong vùng kinh tế đó và cũng sẽ được tự do đối với việc đặt dây cáp và ống dẫn ngầm”.Công ước 1982 quy định: nước ngoài có quyền đặt dây cáp, ống dẫn nhưng làm theo các điều kiện là không làm ảnh  hưởng và gay trở ngại đến việc điều tra thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên và nghiên cứu khoa học trong vùng biển.
Quyền đánh cá: Tính chất của vùng đặc quyền kinh tế là khai thác các nguồn lợi về kinh tế của các quốc gia ven biển, trong đó phải kể đến cá. Chính vì vậy các quốc gia ven biển luôn kiên quyết bảo vệ quan điểm đặc quyền của mình đối với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên nói chung và khai thác nguồn cá nói riêng chống lại quan điểm của các nước sớm phát triển chỉ muốn công nhận nước ven biển có quyền đánh cá ưu tiên. Các quan điểm tranh luận gay gắt đã chấm dứt khi Công ước Luật biển 1982 quy định: Nếu quốc gia ven biển có khả năng kĩ thuật đánh bắt hết toàn bộ số cá có thể đánh bắt được trong vùng đặc quyền kinh tế thì có quyền giữ độc quyền khai thác và từ chối không cho nước khác tham gia nhưng nếu quốc gia ven biển không có khả năng khai thác hết thì quốc gia ven biển sẽ bằng con đường hiệp thương cho phép quốc gia khác vào đánh bắt số cá dư. Việc cho phép các quốc gia khác vào đánh bắt số cá dư vừa không gây sự lãng phí tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế vừa nhạn được tỉ lệ phần trăm nhất định từ việc khai thác cá dư này, nhận được sự chuyển giao công nghệ và có thể coi đây là 1 sự trợ giúp của các quốc gia ven biển trong việc khai thác tài nguyên biển. Tuy nhiên những người đánh bắt cá nước ngoài phải tôn trọng những điều kiện về thể thức và điều lệ do nước ven biển quy định. Những nọi dung này được ghi nhận tại các Điều 69, 70 và 72 của Công ước Luật biển 1982.
Quyền tài phán: Các quốc gia khác có quyền tài phán đối với tàu thuyền mang quốc tịch của nước mình khi hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của nước ven biển ( Điều 94 Công ước Luật biển 1982)
            Từ những gì phân tích ở trên, ta có thể khẳng định rằng quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế đã chứng tỏ đây là một vùng biển đặc thù thể hiện sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia. Một mặt, bảo đảm cho quốc gia ven biển có thẩm quyền riêng biệt trong việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế mặt khác công nhận cho các quốc gia khác có một số quyền tự do biển cả. Điều này cho phép giải quyết song hành được hai vấn đề đặt ra trong quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế, đó là mở rộng quyền chủ quyền của các nước ven bờ một cách có giới hạn để đảm bảo lợi ích chính đáng của các nước ven bờ đồng thời đảm bảo tính ổn định tương đối của biển cả - nơi mà lợi ích chung của cộng đồng cần được tôn trọng. Qua đó, có ý nghĩa giảm thiểu những tranh chấp bất đồng giữa các quốc gia khi tham gia các hoạt động liên quan đến biển.



C.    TIỂU KẾT
Có thể thấy rằng quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định về cách xác định và quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế, cuối cùng được thống nhất và ghi nhận trong Phần V của Công ước Luật biển 1982 đã thể hiện sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia. Mở ra thời kì các quốc gia cùng hợp tác hòa bình, hữu nghị trên biển.









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét