A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thực tế đã chứng minh rằng,
biển đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với mỗi quốc gia về nhiều mặt như:
kinh tế, an ninh - quốc phòng... Đặc biệt, kể từ nửa sau của thế kỉ XX cho đến
nay thì điều này càng đúng khi mà đất liền dường như ngày càng trật hẹp không
thể đáp ứng được các yêu cầu về dân dân số, năng lượng cũng như môi trường…Vì
thế, biển và đại dương đã trở thành miền đất hứa cho tất cả các quốc gia. Trong
bối cảnh đó, tất cả các nước đặc biệt là các cường quốc có tiềm lực mạnh về
kinh tế, khoa học kĩ thuật hiện đại, công nghiệp hàng hải phát triển đều có xu
hướng “ tiến ra biển”, tăng cường tiềm lực mọi mặt để khai thác và sử dụng hiệu
quả các nguồn lợi từ biển. Điều này đã dẫn đến nhiều tranh chấp về quyền, nghĩa
vụ và lợi ích giữa các quốc gia đặc biệt là giữa các quốc gia phát triển và quốc
gia đang phát triển, giữa các quốc gia có biển và các quốc gia không có biển
hay có vị trí địa lý bất lợi về biển. Tình hình này đặt ra yêu cầu phải cho ra
đời một vùng biển mà ở đó lợi ích của các quốc gia đều được dung hòa – vùng đặc
quyền kinh tế, được quy định cụ thể trong công ước luật biển 1982. Với mong muốn
có thêm những hiểu biết sâu rộng hơn nữa về vấn đề nói trên, e xin đi sâu phân
tích đề tài số 1 “Chứng minh rằng quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định về cách xác
định và quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế trong luật biển quốc tế thể
hiện rõ sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia”.
Do kiến thức cũng như
kĩ năng làm bài còn nhiều hạn chế hẳn bài làm còn nhiều thiếu sót nên em rất
mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài làm được hoàn thiện hơn. Em xin chân
thành cảm ơn!
xêm thêm:thành lập công ty TNHH
B.
NỘI
DUNG
I.
Lý
luận chung
1.
Khái
niệm vùng đặc quyền kinh tế
Vùng đặc quyền kinh tế là một vấn đề
mới được đặt ra trong thực tiễn pháp lý quốc tế từ những năm 70 của
thế kỷ XX tại Hội nghị về Luật biển quốc tế lần thứ III. Vùng biển này ra đời
xuất phát từ lợi ích, nhu cầu của các nước đang phát triển có biển đấu tranh nhằm
mở rộng quyền của mình trong lĩnh vực kinh tế, về bảo tồn, thăm dò, khai thác
tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế vào mục đích phát triển
kinh tế - xã hội. Trái lại, các nước công nghiệp phát triển lại tỏ ra chống đối
khuynh hướng này vì việc thiết lập vùng đặc quyền kinh tế thì lợi ích của các
quốc gia này bị giảm xuống do biển quốc tế sẽ bị thu hẹp lại.
Trải qua quá trình đấu
tranh cam go, phức tạp trong các hội nghị, Công ước Luật biển 1982 đã ra đời và
cho một khái niệm thống nhất về vùng đặc quyền kinh tế như sau: vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển
nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải có chiều rộng không vượt
quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải (Điều
55, Điều
57 Công ước luật biển 1982 ).
Vùng này đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần V – Vùng đặc quyền
kinh tế của Công ước luật biển 1982. Vùng đặc quyền kinh tế
không tồn tại một cách đương nhiên đối với mỗi quốc gia ven biển mà nó chỉ có
thể trở thành hiện thực thông qua tuyên bố đơn phương hoặc thỏa thuận của các
quốc gia hữu quan.
2.
Sự
dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia.
Sự dung hoà về lợi ích
giữa các quốc gia được hiểu là các quốc gia đã có sự nhân nhượng nhau về lợi ích, từ chỗ quan điểm khác xa thậm chí đối lập
nhau cùng hướng tới tạo dựng những quan điểm chung, thống nhât về một vấn đề để
sao cho đưa ra được một quyết định cùng có lợi nhất cho tất cả các bên.
3.
Cơ
sở của sự dung hòa lợi ích giữa các quốc gia trong vùng đặc quyền kinh tế.
Về bản chất, các nguyên tắc, các quy phạm của luật quốc tế được xây dựng trên cơ sở sự thỏa
thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế mà chủ yếu là các quốc
gia. Khi tham gia vào quan hệ quốc tế các quốc gia có địa vị hoàn toàn độc lập
và bình đẳng, do đó, không một quốc gia hay một cơ quan lập pháp nào có quyền đặt
ra pháp luật bắt quốc gia phải thực hiện. Sự thỏa thuận giữa các chủ thể của luật
quốc tế nói chung và giữa các quốc gia nói riêng để xây dựng nên các quy phạm
pháp luật quốc tế có thể bằng hai phương pháp: Một là phương pháp thỏa thuận rõ ràng minh bạch thông qua việc kí kết
các điều ước quốc tế; Hai là phương
pháp thỏa thuận ngầm định thông qua việc các chủ thể cùng thừa nhận những quy tắc
xử sự chung hình thành trong thực tiễn sinh hoạt quốc tế. Mặc dù có sự khác
nhau về phương thức hình thành nhưng nguyên tắc chung, xuyên suốt quá trình xây
dựng pháp luật chính là sự thỏa thuận chủ thể của luật quốc tế. Và sự hình
thành Luật biển quôc tế trong đó có những quy định về vùng đặc quyền kinh tế
cũng không nằm ngoài nguyên tắc
thỏa thuận này. Quá trình thỏa thuận
thể hiện tương quan lực lượng và tương quan lợi ích giữa các quốc gia. Trong đó
mỗi quốc gia đều có quyền đưa ra quan điểm, ý kiến của mình đồng thời có tính đến
lợi ích của các quốc gia khác mà không có bất cứ một sự áp đặt nào. Như
vậy, nguyên tắc thỏa thuận trong luật quốc tế chính là cơ sở cho sự dung hòa về
lợi ích giữa các quốc gia trong vùng đặc quyền kinh tế.
II.
Quá trình xây dựng, hoàn thiện những quy định về cách xác định và quy chế pháp
lý của vùng đặc quyền kinh tế thể hiên sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia
1.
Quá
trình xây dựng, hoàn thiện những quy định về cách xác định của vùng đặc quyền
kinh tế thể hiện sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia.
Theo
sự ghi nhận tại điều 55 và Điều 57 Công ước luật biển 1982 thì cách xác định
vùng đặc quyền kinh tế được quy định là vùng
nằm phía ngoài của lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, có chiều rộng không quá
200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải. Cách xác
định với vị trí và chiều rộng như vậy chính là kết quả của cả một quá trình đấu
tranh, thương thuyết lâu dài đồng thời thể hiện sự dung hòa về lợi ích giữa các
quốc gia.
Khái niệm, sự hình thành của vùng đặc quyền kinh tế
mà trước nhất là cách xác định của vùng này có xuất
phát điểm là những hành vi mang tính chất đơn phương mà khởi đầu là sự kiện ngày 28/9/1945 tổng thống Mĩ Truman đưa ra tuyên bố về nghề cá ven bờ
trong một số vùng của biển cả bên ngoài lãnh hải ba hải lý, theo đó Mĩ sẽ thiết lập một “
vùng bảo tồn một phần nhất định của biển cả tiếp liền với bờ biển của nước Mĩ,
tại đó các hoạt động đánh cá đã và sẽ được phát triển trong tương lai tới một mức
độ quan trọng”.
Sau tuyên bố của Tổng thống Mĩ Truman, nhiều quốc gia như Chile, Peru sau đó
là Brazin, Arhentina, Mehico…cũng
đơn phương khẳng định thẩm quyền riêng biệt đối với vùng biển ven bờ
và đưa ra yêu sách chiều rộng
lãnh hải tới 200 hải lý. Yêu sách này gặp phải sự phản đối từ phía các cường quốc
hàng hải – những nước có chủ trương hạn chế tối đa sự mở rộng quyền lực ra phía
biển của các quốc gia ven biển nhằm bảo vệ các quyền tự do biển cả truyền thống.
Sự trái ngược trong quan điểm giữa các quốc gia về chiều rộng của vùng đặc quyền
kinh tế là rất dễ hiểu, nó xuất phát từ mục đích bảo vệ lợi ích của các quốc
gia: các cường quốc hàng hải có tiềm lực mạnh về kinh tế, khoa học kĩ thuật, có
khả năng khai thác được nhiều tài nguyên thiên nhiên biển tất nhiên mong muốn
vùng đặc quyền kinh tế - nơi có sự hiện diện quyền chủ quyền của các quốc gia
ven biển sao cho hẹp nhất để vùng biển truyền thống - nơi các cường quốc này được
tự do khai thác tài nguyên biển sẽ càng lớn. Trái lại, các quốc gia ven bờ đang
phát triển hay kém phát triển lại mong muốn có một vùng đặc quyền kinh tế rộng
nhất có thể để một mặt đảm bảo an toàn cho quyền khai thác tài nguyên biển, trước
hết là quyền khai thác cá của họ mà không lo ngại đến việc phải tranh chấp với
các quốc gia khác, mặt khác cho phép các nước này có một “hành lang” ngoài biển bảo vệ, phòng thủ đất nước… Đối với các nước
Á – Phi, chính sách mở rộng biển thể hiện
ở mức độ mềm dẻo nhất định mang tính chất cần bằng giữa hai cực.
Trải qua nhiều vòng đàm phán, thương lượng,
khái niệm vùng đặc quyền kinh tế với cách xác định là một vùng nằm phía ngoài của
lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải có chiều rộng không vượt quá 200 hải lý tính
từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải đã được công nhận như một tập
quán quốc tế sau đó được quy định cụ thể tại điều 55 và Điều 57 Công ước luật
biển 1982. Có thể thấy rằng, quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định về cách xác định vùng đặc quyền kinh tế
nói trên đã thể hiện rõ sự dung hòa về quyền lợi giữa các quốc gia. Thể hiện ở
hai điểm sau:
Thứ
nhất:
Phương pháp để đi đến một quyết định thống nhất về cách xác đinh vùng đặc quyền
kinh tế là bằng sự thỏa thuận giữa các quốc gia mà không phải sự áp đặt ý chí của
các quốc gia mạnh lên các quốc gia yếu hay của số đông lên số ít.... Như đã
phân tích ở phần I, bằng sự thỏa thuận trên cơ sở bình đẳng và tự nguyện, các
quốc gia hữu quan có thể tự do bày tỏ quan điểm của mình nhưng phải tính đến lợi
ích của các bên hữu quan để có thể đi đến một kết quả cuối cùng phù hợp với lợi
ích của tất cả các bên. Do đó, quá trình thỏa thuận cũng thể hiện sự dung hòa về
lợi ích giữa các quốc gia.
Thứ
hai: Sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia thể hiện ở kết quả đạt được là sự thống nhất quan
điểm về cách xác định vùng đặc quyền kinh tế theo công ước Luật biển 1982. Bởi
đây chính là kết quả của sự nhượng bộ lẫn nhau về lợi ích giữa hai trường phái:
một là trường phái bảo vệ vùng biển truyền thống của cộng đồng quốc tế và một
là trường phái tiến ra biển của các quốc gia ven bờ.
Từ những phân tích trên ta khẳng định quá
trình xây dựng và hoàn thiện các quy định về cách xác định vùng đặc quyền quyền
kinh tế đã thể hiện sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia.
2.
Quá
trình xây dựng, hoàn
thiện những quy định về quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế thể hiện sự
dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia.
·
Sự dung hòa thể hiện trong quá
trình xây dừng và hoàn thiện các quy định về quy chế pháp lý trong vùng đặc quyền
kinh tế
Cùng với quá trình xây
dựng và hoàn thiện các quy định về cách xác định là quá trình xây dựng và hoàn
thiện các quy định về quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế. Để đi đến sự
thống nhất cuối cùng về quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế được ghi nhận
trong Công ước luật biển 1982 là cả một quá trình đấu tranh, thỏa thuận lâu dài
giữa các quốc gia với hai luồng quan điểm trái chiều. Các quốc gia ven biển thì
mong muốn mình có thật nhiều quyền ở vùng đặc quyền kinh tế đồng thời loại bỏ
quyền của các quốc gia khác, trái lại các cường quốc hàng hải thì muốn hạn chế
tối đa các quyền này của các quốc gia ven biển. Trong khi Mĩ đưa ra đề nghị sẽ
thiết lập một “ vùng bảo tồn một phần nhất định của biển cả tiếp liền với
bờ biển của nước Mĩ, tại đó các hoạt động đánh cá đã và sẽ được phát triển
trong tương lai tới một mức độ quan trọng” nằm ngoài lãnh hải 3km thì các nước Mĩ
La Tinh như Chile, Peru,Ecuado không những muốn mở rộng vùng lãnh hải ra 200 hải
lý mà còn muốn loại bỏ quyền tự do hàng hải và các quyền tự do biển cả khác. Một
số nước khác thì yêu cầu vùng đánh cá đặc quyền. Rõ ràng, những sự kiện trên đã
thể hiện quan điểm trái chiều giữa các quốc gia trong việc thiết lập quy chế
pháp lý cho vùng đặc quyền kinh tế. Trước tình hình đó, thì năm 1971, Kenya và
một số quốc gia Á – Phi đã đưa ra đề nghị dung hòa hai lập trường trên: Trong vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia
ven biển có “ thẩm quyền đặc biệt nhằm kiểm soát, quy định, khai thác và bảo vệ
các tài nguyên sinh vật cũng nhue không sinh vật của vùng và ngăn ngừa và đấu
tranh chống lại sự ô nhiễm” trong khi các quyền tự do hàng hải, tự do bay, tự
do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm được bảo lưu. Quan điểm này nhanh chóng được
chấp nhận, không gây ra sự phẩn đối nào. Và nó đã có giá trị tập quán trước khi
được ghi nhận trong Công ước luật biển 1982. Như vậy, quá trình này đã thể hiện
rất rõ sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia bởi nó cũng thể hiện sự nhượng
bộ lẫn nhau giữa hai trường phải quan điểm vốn khác xa thậm chí đối lập nhau
trước đây.
·
Sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc
gia thể hiện trong nội dung các quy định về quy chế pháp lý của vùng đặc quyền
kinh tế trong Công ước luật biển 1982.
Quy chế pháp lý lý của
vùng đặc quyền kinh tế được ghi nhận trong toàn bộ Phần V của Công ước luật biển
1982.mVùng đặc quyền kinh tế là một vùng có chế độ pháp lý hỗn hợp, trong đó vừa
tồn tại quyền chủ quyền của quốc gia ven biển vừa tồn tại quyền tự do biển biển cả được thừa nhận trong
luật biển quốc tế. Chế độ này đã tạo nên một vùng biển mang tính chất đặc thù,
tạo sự tương đồng giữa các nhóm lợi ích khác nhau – các quốc gia ven biển và
các quốc gia khác ngay trong vùng đặc quyền kinh tế hay chính là sự dung hòa về
quyền lợi giữa các quốc gia.
* Quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc
gia ven biển:
Quyền
thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật
hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và dưới lòng đất
dưới đáy biển: Trong vùng đặc quyền kinh tế các quốc
gia ven biển có quyền chủ quyền đối với thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản
lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên
trên đáy biển, đáy biển và dưới lòng đất dưới đáy biển, cũng như về các hoạt động
khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất
năng lượng từ nước, hải lưu và gió…ghi nhận tại điều 56 công ước Luật biển
1982. Đối với tài nguyên không sinh vật,
quốc gia ven biển tự khai thác hoặc cho phép các quốc gia khác khai thác và đặt
dưới quyền kiểm soát của mình. Đối với
tài nguyên sinh vật, các quốc gia ven biển thi hành các biện pháp thích hợp
để bảo tồn và quản lý nhằm duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền
kinh tế của mình khỏi bị khái thác quá mức. Để tạo điều kiện khai thác tối ưu
nguồn tài nguyên sinh vật, các quốc gia ven biển tự xác định tổng khối lượng có
thể đánh bắt và đánh giá khả năng khai thác thực tế của mình. Trong trường hợp
khả năng khai thác thấp hơn khối lượng cá có thể đánh bắt, quốc gia ven biển có
thể cho phép các quốc gia khác khai thác số dư thông qua điều ước hoặc thỏa thuận
giữa các bên, trên cơ sở ưu tiên cho các quốc gia không có biển hoặc có vị trí
bất lợi về địa lý ( Điều 61,62 Công ước
Luật biển 1982 ).
Quyền
thiết lập các công trình thiết bị đảo nhân tạo:
Quốc gia ven biển có đặc quyền trong việc xây dựng, cho phép và quy định việc
xây dựng, khai thác và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị công trình trong
vùng đặc quyền kinh tế. Quốc gia ven biển đồng thời có quyền tài phán đặc biệt
đối với những công trình trên, bao gồm cả việc ban hành và đảm bảo thực thi các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hải quan, thuế, y tế, an ninh và nhập
cư ( Điều 56, 60 Công ước Luật biển 1982).
Quyền
nghiên cứu khoa học: Việc nghiên cứu khoa học biển trong
vùng đặc quyền kinh tế chỉ được tiến hành trên cơ sở thỏa thuận với quốc gia
ven biển và không được gây trở ngại cho quốc gia ven biển trong việc thực thi
quyền chủ quyền và quyền tài phán phù hợp với Công ước Luật biển 1982 ( Điều
56,246 Công ước Luật biển 1982)
Quyền
tài phán bảo vệ môi trường biển: Công ước Luật biển
1982 còn công nhận cho quốc gia ven biển
có quyền tài phán về bảo vệ và giữ gìn môi trường biển chống lại sự gây ô nhiểm
từ các nguồn khác nhau như các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài
phán của quốc gia ( Điều 208), ô nhiễm do sự nhấn chìm ( Điều 210) và ô nhiễm
do hoạt động của tài thuyền ( Điều 211). Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia
ven biển có quyền ban hành pháp luật và thực hiện mọi biện pháp cần thiết nhằm
bảo vệ, giữ gìn môi trường biển. Tất cả các đối tượng, khi đang hoạt động trong
vùng đặc quyền kinh tế dù đang thực hiện quyền tự do của mình, nếu gây ra những
hậu quả xâm hại đến môi trường biển đều chịu sự tài phán của quốc gia ven biển.
Ngoài các quyền nói
trên thì Công ước Luật biển 1982 cũng quy định quốc gia ven biển phải có nghĩa
vụ tôn trọng các quyền cũng như nghĩa vụ của các quốc gia khác.
* Các quyền và nghĩa vụ của các
quốc gia khác.
Theo công ước Luật biển
1982, các quốc gia khác được hưởng một số quyền sau:
Quyền
tự do hàng hải và hàng không: Ngay từ khi khái niệm
về vùng đặc quyền kinh tế mới hình thành thì quyền tự do giao thông cả các nước
khác dù có biển hay có vị trí bất lợi về biển đã được ấn định. Việc thực hiện
chủ quyền về kinh tế của các nước ven biển không làm phương hại đến việc sử dụng
biển chính đáng của các nước khác. Điều 58 Công ước Luật biển nhấn mạnh “ ở vùng đặc quyền kinh tế, tất cả các nước có
biển hay không có biển đều có uyền tự do hàng hải, hàng không, tự do đặt dây
cáp, ống dẫn ngầm”. Tuy nhiên, khi thực hiện các quyền này các quốc gia
khác cũng không được làm phương hại đến quyền và lợi ích của quốc gia ven biển.
Như vậy, chế độ tài
phán đặc biệt trong vùng đặc quyền kinh tế không hề gay trở ngại cho sự tự do
giao thông hợp pháp dành cho nước ngoài
trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển. Việc đặt dây cáp ống dẫn ngầm
của nước ngoài trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển cũng có thể
được chấp nhận. Trong tuyên bố Santodomigo có nói “ trong vùng đặc quyền kinh tế, tàu thuyền và náy bay của tất cả các nước
dù có bờ biển hay không có bờ biển, đều được hưởng quyền tự do hàng hải tự do
bay trên không và không có bất cứ sự bó buộc nào khác, ngoài việc nước ven biển
thực hiện quyền của họ trong vùng kinh tế đó và cũng sẽ được tự do đối với việc
đặt dây cáp và ống dẫn ngầm”.Công ước 1982 quy định: nước ngoài có quyền đặt
dây cáp, ống dẫn nhưng làm theo các điều kiện là không làm ảnh hưởng và gay trở ngại đến việc điều tra thăm
dò khai thác tài nguyên thiên nhiên và nghiên cứu khoa học trong vùng biển.
Quyền
đánh cá: Tính chất của vùng đặc quyền kinh tế là khai thác
các nguồn lợi về kinh tế của các quốc gia ven biển, trong đó phải kể đến cá.
Chính vì vậy các quốc gia ven biển luôn kiên quyết bảo vệ quan điểm đặc quyền của
mình đối với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên nói chung và khai thác nguồn
cá nói riêng chống lại quan điểm của các nước sớm phát triển chỉ muốn công nhận
nước ven biển có quyền đánh cá ưu tiên. Các quan điểm tranh luận gay gắt đã chấm
dứt khi Công ước Luật biển 1982 quy định: Nếu quốc gia ven biển có khả năng kĩ
thuật đánh bắt hết toàn bộ số cá có thể đánh bắt được trong vùng đặc quyền kinh
tế thì có quyền giữ độc quyền khai thác và từ chối không cho nước khác tham gia
nhưng nếu quốc gia ven biển không có khả năng khai thác hết thì quốc gia ven biển
sẽ bằng con đường hiệp thương cho phép quốc gia khác vào đánh bắt số cá dư. Việc
cho phép các quốc gia khác vào đánh bắt số cá dư vừa không gây sự lãng phí tài
nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế vừa nhạn được tỉ lệ phần trăm nhất
định từ việc khai thác cá dư này, nhận được sự chuyển giao công nghệ và có thể
coi đây là 1 sự trợ giúp của các quốc gia ven biển trong việc khai thác tài
nguyên biển. Tuy nhiên những người đánh bắt cá nước ngoài phải tôn trọng những
điều kiện về thể thức và điều lệ do nước ven biển quy định. Những nọi dung này
được ghi nhận tại các Điều 69, 70 và 72 của Công ước Luật biển 1982.
Quyền
tài phán: Các quốc gia khác có quyền tài phán đối với tàu
thuyền mang quốc tịch của nước mình khi hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế
của nước ven biển ( Điều 94 Công ước Luật biển 1982)
Từ
những gì phân tích ở trên, ta có thể khẳng định rằng quy chế pháp lý của vùng đặc
quyền kinh tế đã chứng tỏ đây là một vùng biển đặc thù thể hiện sự dung hòa về
lợi ích giữa các quốc gia. Một mặt, bảo đảm cho quốc gia ven biển có thẩm quyền
riêng biệt trong việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên trong vùng đặc quyền
kinh tế mặt khác công nhận cho các quốc gia khác có một số quyền tự do biển cả.
Điều này cho phép giải quyết song hành được hai vấn đề đặt ra trong quy chế
pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế, đó là mở rộng quyền chủ quyền của các nước
ven bờ một cách có giới hạn để đảm bảo lợi ích chính đáng của các nước ven bờ đồng
thời đảm bảo tính ổn định tương đối của biển cả - nơi mà lợi ích chung của cộng
đồng cần được tôn trọng. Qua đó, có ý nghĩa giảm thiểu những tranh chấp bất đồng
giữa các quốc gia khi tham gia các hoạt động liên quan đến biển.
C. TIỂU KẾT
Có thể thấy rằng quá
trình xây dựng, hoàn thiện các quy định về cách xác định và quy chế pháp lý của
vùng đặc quyền kinh tế, cuối cùng được thống nhất và ghi nhận trong Phần V của
Công ước Luật biển 1982 đã thể hiện sự dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia. Mở
ra thời kì các quốc gia cùng hợp tác hòa bình, hữu nghị trên biển.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét