LỜI MỞ ĐẦU
Trong
thực tiễn đời sống hàng ngày, các thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của công dân; tài sản, uy tín của các tổ chức có thể xảy ra
dưới nhiều tác động rất khác nhau. Trong số đó có những tác động liên quan đến
nguồn nguy hiểm cao độ. Các sản phẩm do con người tạo ra đôi khi tiềm ẩn những
nguy cơ, rủi ro cho môi trường xung quanh mà chúng ta không thể lường trước
hoặc nếu có ý thức phòng ngừa thì cũng không kiểm soát được một cách tuyệt đối.
Chủ sở hữu hay người chiếm hữu tài sản dù không có lỗi hoặc có lỗi vô ý đối với
việc gây ra thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra. Đây
là một trong số các loại BTTH ngoài hợp đồng và được Bộ luật dân sự quy định là
một loại “trách nhiệm dân sự nâng cao”.
Hiện nay,
việc áp dụng pháp luật đối với vấn đề BTTH do NNHCĐ gây ra vẫn còn nhiều tranh
cãi, vướng mắc. Chính vì thế, trong bài tiểu luận này, em xin đi sâu vào phân
tích sâu về các khía cạnh liên quan đến BTTH do NNHCĐ gây ra để từ đó tìm ra
thiếu sót và có những kiến nghị đối với quy định của pháp luật dân sự hiện
hành.
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BTTH NGOÀI HỢP ĐỒNG
BTTH ngoài
hợp đồng còn gọi là trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại. Trách nhiệm BTTH ngoài
hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý, có tính cưỡng chế của nhà nước buộc
người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác phải bồi thường,
là trách nhiệm của người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại mà giữa người
gây thiệt hại với người bị thiệt hại không có quan hệ hợp đồng hoặc có quan hệ
hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc nội dung thực hiện hợp đồng.
Theo quy định
tại Điều 604 BLDS 2005 thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có
đủ điều kiện do pháp luật quy định, các điều kiện đó là: có thiệt hại xảy ra,
có hành vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật
và thiệt hại xảy ra, có lỗi. Nhưng đối với trách nhiệm BTTH theo hợp đồng thì
trách nhiệm bồi thường thuộc về bên vi phạm hợp đồng đã không thực hiện, thực
hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ theo hợp đồng. Chủ thế chịu trách nhiệm:
một trong hai bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng sẽ là chủ thể có trách nhiệm
bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra đối với BTTH ngoài hợp đồng thì ngoài việc
áp dụng trách nhiệm bồi thường với người có hành vi trái pháp luật gây thiệt
hại còn áp dụng với những người khác như cha, mẹ của người chưa thành niên,
người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người được pháp
nhân, trường học…
II. TRÁCH NHIỆM BTTH DO NHHCĐ GÂY RA
1. Khái niệm NNHCĐ, trách
nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra
1.1. Khái niệm nguồn nguy
hiểm cao độ
Theo
quy định tại khoản 1 điều 623 BLDS 2005 thì:
“1. NNHCĐ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ
thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy,
chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các NNHCĐkhác do pháp luật quy định.
Khoản 1 Điều
623 BLDS năm 2005 chỉ liệt kê những NNHCĐtrong thực tế và Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn: “Để xác định NNHCĐ phải căn cứ vào Khoản 1 Điều 623 BLDS và văn bản quy
phạm pháp luật khác có liên quan hoặc quy định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về lĩnh vực cụ thể đó”.
Theo quy định
nêu trên, có thể hiểu khái quát NNHCĐlà những đối tượng mà khi sử dụng, bảo
quan, cất giữ trông coi luôn tiềm ẩn sự nguy hiểm, sự rủi ro cao đối với tính
mạng, sức khỏe và tài sản của con người. Tính nguy hiểm của NNHCĐẩn chứa trong
các đặc điểm lý, hóa, trong yêu cầu kỹ thuật và các điều kiện an toàn khi sử
dụng các đối tượng đó. Có những loại đối tượng dễ nhận ra tính chất nguy hiểm
cao độ của chúng, chẳng hạn như thú dữ, chất độc, chất dễ cháy. Tuy nhiên, một
số những đối tượng phải có một số tính chất chúng sau đây mới được coi là NNHCĐ:
Thứ nhất, hoạt động của các đối tượng mang tính chất nguy hiểm cao
độ cho mọi người xung quanh thường là những hoạt động hợp pháp, chỉ khi NNHCĐ
gây ra thiệt hại cho thế giới vật chất xung quanh thì hoạt động đó mới bị coi
là bất hợp pháp. Các đối tượng được quy định là NNHCĐ nêu trên phần lớn là
những đối tượng có thiết kế kỹ thuật, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như phương
tiện vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy chế tạo, vũ khí, chất nổ, chất
cháy, chất độc, chất phóng xạ…Vấn đề không phải tất cả các phương tiện kỹ thuật
khi sử dụng đều mang tính chất nguy hiểm cao độ mà chỉ những hoạt động mang
tính chất cơ giới hoặc những đối tượng khác có đặc tính lý, hóa điển hình mới
coi là NNHCĐ.
Thứ hai, hoạt động của đối tượng được coi là NNHCĐ cho thế giới vất
chất xung quanh được thể hiện trong việc sử dụng chúng, con người không thể
kiểm soát được một cách chặt chẽ, toàn diện. Điều này được thể hiện trong việc
con người chỉ bảo đảm được sự giám sát cần thiết nhờ những biện pháp kỹ thuật
an toàn. Tuy nhiên, những biện pháp kỹ thuật an toàn thường lạc hậu hơn, không
đồng bộ với kỹ thuật chung hay không tính toán hết được các sự cố kỹ thuật có
thể xảy ra trong quá trình sử dụng chúng. Chính vì vậy, sử dụng kỹ thuật chung
bao hàm tính chất nguy hiểm của việc bất ngờ xảy ra thiệt hại.
Như vậy, từ sự phân tích trên chúng ta có thể đưa ra khái
niệm về NNHCĐ nhự sau: NNHCĐ là những vật, thú dữ…luôn tiềm ẩn những nguy cơ
gây thiệt hại bất ngờ cho con người hoặc gây thiệt hại về tài sản mà không phải
bao giờ con người cũng có thể kiểm soát, lường trước được và có thể ngăn chặn
được.
1.2.
Khái niệm BTTH do NNHCĐ gây ra
Việc phân
biệt trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra và trách nhiệm BTTH do hành vi trái pháp luật
gây ra có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định ai là người phải bồi thường. Về
nguyên tắc, chủ sở hữu NNHCĐ phải bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra kể cả
trong trường hợp chủ sở hữu NNHCĐ không có lỗi. Tuy nhiên, theo quy định tại
Khoản 2 Điều 623 BLDS thì trong trường hợp CSH NNHCĐ đã giao NNHCĐ cho người
khác chiếm hữu, sử dụng thông qua một hợp đồng cho thuê, cho mượn thì trong
thời gian người thuê, người mượn sử dụng NNHCĐ mà gây thiệt hại cho người khác
hoặc tài sản của người khác thì người đang chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ phải bồi
thường, trừ trường hợp chủ sở hữu và người thuê, người mượn có thỏa thuận khác.
Chủ sở hữu giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ thông qua hợp đồng lao
đồng, thì chủ sở hữu có trách nhiệm BTTH khi NNHCĐ gât ra thiệt hại cho người
khác. Vì trường hợp này, CSH đồng thời là người đang quản lý khai thác NNHCĐ.
Như vậy, pháp
luật quy định cho dù CSH hoặc người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ hợp
pháp phải BTTH khi NNHCĐ gây ra cho người và vật khác kể cả khi họ không có lỗi
trong việc NNHCĐ gây ra thiệt hại. Tuy nhiên trong một số trường hợp pháp luật
không áp dụng trác nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra là:
1. Thiệt hại xảy ra
hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
2. Thiệt hại xảy ra
trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác.
Tại khoản 3
Điều 623 BLDS 2005 có quy định CSH, người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng
NNHCĐ phải bồi thường cho người bị thiệt hại khi NNHCĐ gây ra thiệt hại có
người đó cho dù CSH, người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng có lỗi hay không
lỗi. Như vậy, có gì khác biệt giữa hành vi có lỗi và không có lỗi của CSH,
người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ khi NNHCĐ gây thiệt hại cho người
khác? Sự khác biệt này được thể hiện ở những loại trách nhiệm pháp lý khác
nhau.
Nếu CSH,
người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ gây thiệt hại cho người khác mà
không có lỗi khi NNHCĐ gây ra thiệt hại cho người khác thì vẫn có trách nhiệm
BTTH do NNHCĐ gây ra theo trách nhiệm dân sự, nhưng người này không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Nếu CSH, người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ mà
có lỗi vô ý hoặc cố ý để NNHCĐ gây thiệt hại cho người khác thì ngoài trách
nhiệm dân sự là bồi thường toàn bộ thiệt hại, họ có thể còn bị truy cứu trách nhiệm
hình sự.
Tóm lại, bản
chất của trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra là do tự thân của NNHCĐ, nếu CSH,
người được CSH giao chiếm hữu có lỗi thì chỉ là lỗi gián tiếp. Họ không phải là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự gây thiệt hại của NNHCĐ. Tuy nhiên, vì NNHCĐ
là tài sản của CSH hoặc được người chiếm hữu sử dụng khai thác cho nên nếu có
thiệt hại do NNHCĐ gây ra thì họ phải BTTH.
Khi NNHCĐ gây
ra thiệt hại cho người khác thì CSH, người chiếm hữu hợp pháp NNHCĐ sẽ phải có
trách nhiệm BTTH trừ những trường hợp mà pháp luật quy định trừ trách nhiệm BTTH
như trường hợp thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thiệt hại xảy ra
trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết.
Vậy trong
trường hợp NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp (ngay tình và không ngay
tình) thì ai sẽ có trách nhiệm BTTH khi NNHCĐ gây ra thiệt hại cho người khác?
Tại Khoản 4 Điều 623 BLDS 2005 quy định nếu NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái
pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải BTTH. Theo quy
định này thì trách nhiệm của CSH NNHCĐ không phát sinh khi NNHCĐ của CSH bị
người khác chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại cho người thứ ba.
Trường hợp này thường xảy ra trong đời sống xã hội khi mà NNHCĐ của CSH bị
trộm, cắp hoặc dưới các hình thức khác thuộc hành vi chiếm đoạt trái pháp luật.
Tuy nhiên
cũng tại Khoản 4 Điều 623 quy định nếu CSH, người được giao chiếm hữu, sử dụng
hợp pháp NNHCĐ cũng có lỗi trong việc để NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp
luật thì phải liên đới BTTH. Trên thực tế, có nhiều trường hợp, CSH, người
chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ giao NNHCĐ cho
một người khác không có đủ năng lực hành vi, không có đủ quyền chiếm hữu, sử
dụng NNHCĐ và NNHCĐ gây thiệt hại cho người thứ ba thì theo khoản 4 nói trên,
CSH, người chiếm hữu sử dụng NNHCĐ phải liên đới BBTH cho người thứ ba. Trường
hợp này nguyên nhân chủ yếu là do chính NNHCĐ gây ra, để nâng cao trách nhiệm
của CSH, người chiếm hữu NNHCĐ thì pháp luật quy định họ phải liên đới bồi
thường.
Từ những phân
tích trên, BTTH do NNHCĐ gây ra được hiểu là trách nhiệm của CSH, người được
CSH giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp, người chiếm hữu bất hợp pháp phải BTTH,
khi hoạt động tự thân của NNHCĐ gây ra thiệt hại cho người khác, kể cả trường
hợp CSH, người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp hoặc người chiếm hữu
bất hợp pháp NNHCĐ không có lỗi trong việc NNHCĐ gây ra thiệt hại.
2. Đặc điểm của BTTH do NNHCĐ
gây ra
Trách nhiệm
BTTH do NNHCĐ gây ra là một trong trường hợp cụ thể của trách nhiệm BTTH ngoài
hợp đồng nên nó cũng có đặc điểm chung của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đó
là: có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi; Ngoài việc áp dụng đối
với người có hành vi trái pháp luật thì còn áp dụng với người khác như cha mẹ
của người chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân
đối với người của pháp nhân…Ngoài ra trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra còn có
những đặc điểm riêng, thể hiện tính chất của loại trách nhiệm này:
Thứ nhất, trách nhiệm BTTH do
NNHCĐ gây ra là trách nhiệm của CSH, người chiếm hữu hợp pháp thông qua hợp
đồng chuyển giao tài sản và của người chiếm hữu trái pháp luật đối với những
thiệt hại do NNHĐ mà mình đang quản lý gây ra.
Khác với
trách nhiệm BTTH nói chung, trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra không do hành vi
của con người mà do tài sản của con người, những vật vô tri, vô giác gây ra. Vì
CSH, người chiếm hữu đang khai thác sử dụng tài sản đó nên phải BTTH theo
nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu.
Thứ hai, trách nhiệm BTTH do
NNHCĐ gây ra phát sinh không phụ thuộc vào yếu tố lỗi. Lỗi là một trong 4 điều
kiện làm phát sinh trách nhiệm BTTH, nhưng đối với trách nhiệm BTTH do NNHCĐ
gây ra thì lỗi không phải là điều kiện cần phải có; trách nhiệm BTTH do NNHCĐ
gây ra có thể phát sinh mà không cần đến lỗi của CSH NNHCĐ. Dấu hiệu quan trọng
nhất để xác định trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra là hoạt động của NNHCĐ. Hoạt
động của NNHCĐ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến
thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của NNHCĐ có thể hoàn toàn không có lỗi của
con người mà tự thân NNHCĐ trong quá trình hoạt động gây ra thiệt hại cho người
khác. Thế nhưng trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra cũng không loại trừ khả năng
thiệt hại có thể một phần lỗi của người quản lý, trông giữ, bảo quản, vận dụng
NNHCĐ nhưng hành vi trông giữ, vận hành NNHCĐ không phải là nguyên nhân có tính
quyết định đến thiệt hại và lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt
hại.
Thứ ba, thiệt hại do NNHCĐ gây ra
không bao gồm thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín. Chủ thể gây ra thiệt hại
trong trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra không phải là con người mà do tài sản
nên nên không thể có hành vi xâm phạm, làm tổn hại, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm
của các chủ thể khác.
XEM THÊM:THÀNH LẬP CÔNG TY TNHH
3. Điều kiện phát sinh
trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra
3.1. Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại là
sự giảm sút những lợi ích về vật chất, danh dự, uy tín của tổ chức; vật chất,
danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe…của cá nhân, những thiệt hại này được
xác định bằng một giá trị vật chất nhất định, cụ thể là bằng một khoản tiền.
Hiện nay, khái niệm thiệt hại được mở rộng với nội dung mới là thiệt hại về
tinh thần được quy định tại Điều 310 BLDS: “Trách
nhiệm BTTH bao gồm trách nhiệm BTTH về vật chất và trách nhiệm BTTH về tinh
thần”.
Thiệt hại do
NNHCĐ gây ra bao gồm những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe và tổn
thất về tinh thần, không có thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín bởi chủ thể
gây thiệt hại là những vật vô tri, vô giác, khách thể mà nó xâm phạm là sức
khỏe, tính mạng, tài sản của cá nhân, tài sản của tổ chức.
Thiệt hại là
điều kiện tiền đề, là cơ sở để phát sinh trách nhiệm BTTH, nếu không có thiệt
hại thì không có trách nhiệm bồi thường.
BTTH do NNHCĐ gây ra là một dạng bồi thường trong trường hợp
cụ thể. Do vậy, về nguyên tắc thiệt hại phải bồi thường bao gồm: thiệt hại do
tài sản bị xâm phạm, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, thiệt hại cho tính mạng
được quy định tại 608,609,610 BLDS 2005.
Thiệt hại về tài sản là
thiệt hại vật chất tính toán được. Theo quy định tại điều 608 BLDS thì thiệt
hại do tài sản bị xâm phạm được bồi thường gồm: tài sản bị mất, bị hư hỏng; lợi
ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; chi phí hợp lý để ngăn chặn,
hạn chế và khắc phục thiệt hại.
Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục
hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập
thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế
của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác ddinhjd dược thì áp dụng
mức thu nhập trung bình của người lao động cùng loại; chi phí hợp lý và phần
thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian
điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường
xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người
bị thiệt hại. và tùy từng trường hợp, tòa án buộc người xâm phạm sức khỏe của
người khác phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người
đó gánh chịu.
Thiệt hại
do tính mạng bị xâm phạm bao gồm: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi
dưỡng; chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí hợp lý cho việc mai
tang; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng, tùy vào từng trường hợp mà Tòa án quyết định người gây thiệt hại do xâm
phạm tính mạng phải bồi thường một khoản tiền bù đắp về tinh thần cho những
người thân thiết gần gũi nhất của người bị thiệt hại như người thân thích thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì
người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi
dưỡng người bị thiệt hại.
3.2. Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại của NNHCĐ và thiệt
hại xảy ra
Quan hệ giữa
sự hoạt động của NNHCĐ và thiệt hại xảy ra có mối quan hệ phổ biến, biện chứng.
Sự hoạt động tự thân của NNHCĐ là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại, không
có yếu tố lỗi của con người. Thiệt hại xảy ra chính là hệ quả của sự hoạt động
tự thân đó. Như vậy, mối quan hệ nhân quả giữa sự hoạt động của NNHCĐ và thiệt
hại xảy ra là căn cứ xác định trách nhiệm BTTH của CSH nguồn NNHCĐ. Việc xác
định này có ý nghĩa pháp lý quan trọng vì nó là bằng chứng để xác định có hay
không trách nhiệm dân sự của CSH nguồn NNHCĐ. Trong trường hợp CSH có lỗi trong
việc để NNHCĐ gây thiệt hại cho người khác thì ngoài trách nhiệm BTTH về dân
sự, CSH hoặc người có lỗi trong việc để NNHCĐ gây ra thiệt hại có thể còn phải
chịu trách nhiệm hình sự.
Trong một số trường
hợp mặc dù về mặt hình thức thì thiệt hại đó cũng do nguyên nhân sự hoạt động
của NNHCĐ nhưng vẫn không xác định trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra. Bởi vì,
tuy có hoạt động của NNHCĐ nhưng hoạt động này có sự tác động bởi hành vi lỗi
của con người chứ không phải tự thân NNHCĐ gây ra. Ví dụ: Để bảo vệ ao cá, ông
A đã chăng dây điện bao quanh ao. Ông B vô tình vướng phải dây điện, bị điện
giật chết. Như vậy, trong trường hợp này tuy ông B chết do tác động của dòng
diện nhưng cái chết của ông B lại do hành vi trái pháp luật của ông A nên ông A
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về lỗi cố ý gián tiếp giết người.
3.3. Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ
Pháp luật bảo vệ những quyền, lợi ích chính đang của mọi chủ
thể trong xã hội và trong các quan hệ pháp luật. Những quyền và lợi ích chính
đáng của mọi cá nhân và tổ chức, của nhà nước đều được bảo vệ bằng pháp luật.
Việc gây thiệt hại trái pháp luật là
những thiệt hại do sự hoạt động tự thân của NNHCĐ làm giảm sút những lợi
ích vật chất nhất định cho thế giới vật chất xung quanh, pháp luật quy định
những thiệt hại này không được xảy ra. Nếu do hành vi trái pháp luật của con
người gây ra thì không thể áp dụng trách nhiệm bồi thường hại do NNHCĐ gây ra
mà áp dụng trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói chung.
Thiệt hại liên quan đến NNHCĐrất đa dạng và do nhiều nguyên
nhân khác nhau, chỉ áp dụng trách nhiệm BTTH do nguồn NNHCĐ gây ra khi thỏa
mãn:
Thứ nhất, những sự vật được coi là NNHCĐ phải đang trong tình trạng
vận hành như phương tiện vận tải cơ giới đang tham gia giao thông, nhà máy cộng
nghiệp đang hoạt động mà bị chập, cháy nổ điện. Nếu thiệt hại trong trường hợp
NNHCĐ ở trạng thái tĩnh thì đó không phải là thiệt hại do NNHCĐ gây ra.
Thứ hai, phải do chính sự tác động của bản thân nguồn NNHCĐ gây ra
hoặc do nội tại của NNHCĐ, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự kiểm soát của con
người. Khi có hoạt động của NNHCĐ gây ra thiệt hại, thì ngoài việc xác định xem
việc gây ra thiệt hại đó là do hành vi của con người tác động vào NNHCĐ gây ra
thiệt hại để đạt được mục đích của mình hay do chính bản thân NNHCĐ trong quá
trình hoạt động tự gây ra thiệt hại để áp dụng trách nhiệm BTTH, chúng ta phải
xem xét hoạt động gây ra thiệt hại của NNHCĐ có trái pháp luật không. Bởi vì có
những trường hợp, mặc dù NNHCĐ có hoạt động gây ra thiệt hại nhưng những thiệt
hại đó được sự cho phép của pháp luật thì hoạt động gây thiệt hại của NNHCĐ
không trái với quy định của pháp luật. Như vậy, không phải mọi trường hợp hoạt
động gây thiệt hại của NNHCĐ đều trái pháp luật.
3.4. Lỗi trong TNBTTH do NNHCĐ
gây ra
Lối là một trong
4 điều kiện làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói riêng và trách
nhiệm dân sự nói chung. Hiện nay tồn tại nhiều quan điểm về khái niệm lỗi,
trong đó chú ý đến hai quan điểm:
1. Lỗi là trạng thái tâm lý, là nhận thức của chủ thể với
hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra
2. Khái niệm lỗi dựa trên sự quan tâm, chu đáo của chủ thể
đối với việc thực hiện nghĩa vụ của mình, theo đó, một cá nhân hay pháp nhân
được coi là không có lỗi nếu khi áp dụng tất cả mọi biện pháp để thực hiện đúng
nghĩa vụ đã biểu hiện sự quan tâm chu đáo mà tính chất của nghĩa vụ và điều
kiện lưu thông dân sự yêu cầu đối với họ.
Điều 308 BLDS
chia lỗi thành hai hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Theo điều luật trên thì lỗi
trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được pháp luật quy định về cơ sở xác định lỗi và hình thức lỗi.
Khoản 3 Điều
623 BLDS năm 2005 quy định: “Chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ phải BTTH ngay cả khi không
có lỗi”.
Hiện nay có
nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến vấn đề có hay không có yếu tố lỗi khi
xác định trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra:
Quan điểm
thứ nhất: Trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra chỉ phát sinh khi tự thân NNHCĐ
gây ra thiệt hại cho thế giới vật chất xung quanh, việc gây ra thiệt hại là do
hoạt động nội tại của NNHCĐ và hoàn toàn không có lỗi của con người.
Nếu có sự tác
động của con người thì con người có lỗi trong việc để NNHCĐ gây thiệt hại thì
áp dụng trách nhiệm BTTH nói chung cho chủ sở hữu và người được chủ sở hữu giao
chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ.
Quan điểm thứ hai: Cứ có
thiệt hại xảy ra và có sự tham gia của NNHCĐ thì trách nhiệm BTTH do NNHCĐ của
chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ sẽ phát sinh,
cho dù chủ sở hữu có lỗi hay không có lỗi. Tất cả thiệt hại do NNHCĐ gây ra đều
áp dụng trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra. Quan điểm này có ưu điểm là kịp thời
bảo vệ quyền và lợi ích của chủ thể bị xâm phạm quyền và lợi ích nhưng có nhược
điểm là quy kết mọi trách nhiệm BTTH cho chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao
chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ, bởi vì có những trường hợp thiệt hại xảy ra là do
hành vi trái pháp luật, do lỗi của chủ thể khác.
Quan điểm
thứ ba, trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra bao gồm cả trường hợp thiệt hại do
NNHCĐ gây ra có một phần lỗi của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm
hữu, sử dụng trong việc quản lý, trông giữ, bảo quản, vận hành NNHCĐ, nhưng
hành vi không tuân thủ các quy định về quản lý, trông giữ, bảo quan vận hành
NNHCĐ của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ chỉ
là thứ yếu đối với thiệt hại xảy ra. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của
con người trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành NNHCĐ thì áp dụng trách
nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu,
sử dụng NNHCĐ dù có chứng minh được là mình không có lỗi trong việc gây ra
thiệt hại thì vẫn không được miễn giảm trách nhiệm BTTH.
Như vậy, cần
phải xác định trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra là trách nhiệm không phụ thuộc
vào yếu tố lỗi của chủ sở hữu. Tuy nhiên, nếu chủ sở hữu có lỗi gián tiếp thì
thiệt hại xảy ra do nguyên nhân chính là hoạt động của NNHCĐ. Lỗi của CSH trở
thành điều kiện tác động đến việc xảy ra thiệt hại nhanh hơn mà thôi.
4. Năng lực chịu trách
nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của chủ thể là khả năng
chủ thể đó phải gánh chịu hậu quả bất lợi từ thiệt hại xảy ra. Chủ thể BTTH do
NNHCĐ gây ra có thể là cá nhân, hoặc pháp nhân, tổ chức. Tuy nhiên BLDS 2005
chỉ quy định năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá nhân.
Tại Điều 606
BLDS 2005 và được Nghị quyết 03 hướng dẫn tại mục 3 phần I thì năng lực chịu
trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra của cá nhân bao gồm:
Thứ nhất, người từ đủ 18 tuổi trở lên có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải tự BTTH do NNHCĐ gây ra bằng tài sản của
mình.
Thứ hai, đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, việc sở hữu và sử dụng NNHCĐ là ít gặp, nhưng không phải không có, nếu
áp dụng điều luật trên để buộc cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường thì sẽ rơi
vào gượng ép, bởi chủ sở hữu NNHCĐlà người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, nếu cha mẹ, người giám hộ không phải là người quản lý NNHCĐ thì
họ hoàn toàn không có lỗi. Như vậy, trách nhiệm bồi thường vẫn thuộc về người
chưa thành niên hoặc người quản lý NNHCĐkhi có thiệt hại xảy ra.
Thực tế, có
những thiệt hại xảy ra không liên quan đến trạng thái tâm lý hay nhận thức của
CSH, sự kiện gây ra thiệt hại nằm ngoài mong muốn và sự kiểm soát của chủ sở
hữu, vì vậy, để nâng cao trách nhiệm của chủ sở hữu trong chiếm hữu, sử dụng
tài sản và đảm bảo tính công bằng thì chủ sở hữu phải BTTH do tài sản của mình
sở hữu hoặc thuộc quyền quản lý của mình.
5. Những trường hợp loại
trừ
5.1. Thiệt hại xảy ra
hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt
hại
Lỗi cố ý của
người bị thiệt hại là người bị thiệt hại nhận thức rõ hành vi của mình gây
thiệt hại cho mình nhưng vẫn thực hiện và mong muốn thiệt hại đó xảy ra với
mình. Đây hoàn toàn là ý muốn chủ quan của người bị thiệt hại, nên pháp luật
quy định trường hợp này người gây thiệt hại không phải bồi thường. Điều 617
BLDS quy định: “Nếu thiệt hại xảy ra hoàn
toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường”.
5.2. Thiệt hại xảy ra
trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết
Một sự kiện được coi là bất khả kháng nếu đáp ứng đủ ba điều
kiện: xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được; không thể khắc
phục được và đã áp dung mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép để ngăn
chặn thiệt hại.
Theo quy định tại Điều 614 BLDS 2005 thì “người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết
không phải bồi thường cho người bị thiệt hại”. Để một hành vi gây thiệt hại
trong tình thế cấp thiết thì hành vi đó phải thỏa mãn các điều kiện:
- Nguy cơ đang tồn tại thực tế, hiển nhiên và không thể
chống lại được
- Lợi ích của nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích chính
đáng của người đó hoặc người khác bị đe dọa.
- Để ngăn ngữa thiệt hại xảy ra, không còn cách nào khác là
phải gây ra một thiệt hại nhỏ hơn.
Như vậy, thiệt hại trong hai trường hợp trên, chủ sở hữu,
người được giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐkhông phải bồi thường. Việc chứng minh
thiệt hại xảy ra do bất kahr kháng hay trong tình thế cấp thiết đòi hỏi những
xem xét, đánh giá cụ thể toàn diện, để đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị thiệt hại cũng như người gây ra thiệt hại.
6. Chủ thể BTTH và chủ thể
được hưởng bồi thường
6.1. Chủ thể BTTH do
NNHCĐ gây ra
NNHCĐ là tài sản đặc biệt, ở nó luôn tiềm ẩn những nguy cơ
gây thiệt hại cho người khác, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá
nhân, tổ chức cũng như nâng cao ý thức, trách nhiệm quản lý, sử dụng của chủ sở
hữu nguồn nguy hiểm cao độ, Khoản 2, 3 Điều 623 quy định:
“2. Chủ sở hữu NNHCĐphải
BTTH do NNHCĐgây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng
thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác;
3. Chủ sở hữu, người
được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐphải BTTH cả khi không có lỗi…”
Căn cứ vào
khoản 2, 3,4 Điều 623 BLDS 2005 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP thì chủ thể có
trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra bao gồm:
- Chủ sở hữu
nguồn nguy hiểm cao độ
- Người được
chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
- Ngưởi chiếm
hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ.
Vậy chủ thể BTTH là chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu
giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ hợp pháp, người chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ trái
pháp luật.
a) Chủ sở hữu NNHCĐ
Chủ sở hữu NNHCĐ là chủ thể đang chiếm hữu, đang thực hiện
mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý NNHCĐ không trái pháp luật
và đạo đức xã hội; khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ chúng. Chủ
sở hữu NNHCĐ đang chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ phải BTTH do NNHCĐ gây ra. Trường
hợp CSH NNHCĐ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ trái pháp luật gây
thiệt hại thì chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm liên đới BTTH.
b) Người được CSH
giao cho quyền sử dụng, chiếm hữu NNHCĐ
Xảy ra các
trường hợp sau:
Thứ nhất, CSH NNHCĐ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng, quản lý
NNHCĐ theo nghĩa vụ lao động. Trong trường hợp này, người được giao chiếm hữu,
sử dụng NNHCĐ là người làm công ăn lương thông qua hợp đồng lao động. Việc họ
chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ là theo sự quản lý của CSH và vì lợi ích của CSH. Nếu
NNHCĐ gây ra thiệt hại trong trường hợp này, thì CSH là người bồi thường, căn
cứ pháp lý áp dụng trường hợp này là Điều 623, 618 về BTTH do người của pháp
nhân gây ra. Tuy nhiên, nếu người chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ theo hợp đồng lao
động nhưng thiệt hại xảy ra trong lúc người đó sử dụng NNHCĐ vào mục đích cá
nhân thì người đó có nghĩa vụ BTTH. Hoặc ngưởi chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ đã có
thỏa thuận chịu mọi trách nhiệm nếu NNHCĐ đã có thỏa thuận chịu mọi trách nhiệm
nếu NNHCĐ gây thiệt hại trước CSH thì người đó phải bồi thường khi có thiệt hại
xảy ra, thỏa thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn
tránh việc bồi thường.
Thứ hai, NNHCĐ được CSH chuyển giao theo
một giao dịch dân sự. Đó là việc người chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ theo hợp đồng:
thuê, mượn, cầm cố…Xuất phát từ nguyên tắc của luật dân sự, các bên có sự thỏa
thuận, trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra trong trường hợp này trước hết căn cứ
vào thỏa thuận của các bên về trách nhiệm BTTH, nếu không có thỏa thuận, thì
người chiếm hữu, sử dụng phải BTTH theo quy định tại Điều 623.
c) Người chiếm hữu, sử
dụng trái pháp luật NNHCĐ
Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật NNHCĐ nếu chủ sở
hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong
việc để nguồn NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật. Trách nhiệm liên đới
bồi thường sẽ phát sinh nếu CSH, người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng hợp
pháp cũng có lỗi trong việc để NNHCĐbị chiếm hữu, sử dụng trái phép.
Chủ thể có
trách nhiệm bồi thường được giảm mức bồi thường khi đủ 2 điều kiện: do lỗi vô ý
mà gây thiệt hại hoặc thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước
mắt và lâu dài của chủ thể BTTH.
6.2. Chủ thể được BTTH
Thiệt hại do
NNHCĐ gây ra gồm thiệt hại về vật chất (thiệt hại tài sản, tính mạng, sức khỏe)
và thiệt hại về tinh thần, chủ thể được hưởng BTTH có thể không phải là người
bị thiệt hại.
Đối với
trường hợp thiệt hại về sức khỏe, thì chủ thể được hưởng bồi thường là người bị
thiệt hại, người chăm sóc người bị thiệt hại (trong thời gian điều trị hoặc
thường xuyên); đối với trường hợp bị thiệt hại về tính mạng thì chủ thể này
gồm: thân nhân của người bị thiệt hại, những người mà người bị thiệt hại có
nghĩa vụ cấp dưỡng, những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất, người
trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại hoặc người được người bị thiệt hại trực
tiếp nuôi dưỡng.
III. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BTTH DO NNHCĐ GÂY RA
1. Thực tiễn áp dụng
Thực tiễn xét xử tại Tòa án những năm qua cho thấy: các vụ
tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, bồi thường
thiệt hại do NNHCĐgây ra nói riêng mỗi năm một gia tăng. Tuy nhiên việc
áp dụng luật vào thực tế còn nhiều vướng mắc.
1.1. Vấn đề xác định
trách nhiệm BTTH
Khi nói tới khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ, Điều 623 BLDS
2005 cũng như Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP chỉ dừng lại ở sự liệt kê mà không có
một định nghĩa cụ thể. Việc liệt kê để mô tả một định nghĩa thì không thể nào
hoàn chỉnh được, khi áp dụng vào thực tế thì việc xác định trách nhiệm BTTH gặp
nhiều khó khăn. Trong thực tế có những sự vật chưa từng được pháp luật quy định
là NNHCĐ nhưng nếu có đầy đủ tính chất của NNHCĐ thì có được coi là nguồn NNHCĐ
không? Cần phải lưu ý có sự phân biệt giữa vật nuôi gây thiệt hại trong trường
hợp nó hung dữ với thiệt hại được coi là NNHCĐ gây ra. Đối với trường hợp chó
dại, trâu điên mặc dù gây thiệt hại tới tính mạng, sức khỏe con người nhưng đây
là động vật đã được thuần hóa, không còn mang tính chất hoang dã nên xác định
đây là trường hợp BTTH do súc vật gây ra. Còn thiệt hại do thú dữ gây ra sẽ
thuộc trường hợp BTTH do NNHCĐ gây ra.
Hay quy định về phương tiện giao thông vận tải cơ giới cũng là một trong
những NNHCĐ được liệt kế tại khoản 1 Điều 623, nhưng thế nào là
phương tiện vận tải cơ giới thì chưa được giải thích rõ ràng. Mặc dù có nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh
nhưng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm hoàn chỉnh về “phương tiện vận tải
cơ giới” trong pháp luật Việt Nam. Phương tiện vận tải cơ giới là một
loại tư liệu lao động vận hành bằng động cơ nên khi sử dụng có thể gây nguy hiểm
cao độ cho những người xung quanh. Hơn nữa, phương tiện vận tải cơ
giới là một loại tài sản thường được chuyển nhượng, cho thuê, cho
mượn, thế chấp, bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ dân sự. Trong các vụ tai nạn do
NNHCĐ gây ra thì số vụ tai nạn do phương tiện vận tải cơ giới gây ra chiếm số
lượng và có mức độ thiệt hại cao nhất. Vấn đề đặt ra là: có phải tất cả các
phương tiện vận tải cơ giới đều là NNHCĐ hay không? Khái niệm “phương tiện vận
tải cơ giới” không bao gồm các loại xe máy chuyên dùng và các loại xe không vận tải. Khi các loại xe này tham
gia giao thông và gây thiệt hại thì có thể áp dụng điều 627 BLDS để giải quyết
việc BTTH hay không? Về lý thì không thể áp dụng nhưng thực tế các toà án vẫn
áp dụng vì nếu không thì không có căn cứ pháp luật nào để giải quyết việc BTTH.
1.2. Không xác định được nguyên nhân dẫn đến thiệt hại
Thực tế hiện
nay vẫn còn những thẩm phán, kiểm sát viên có sự nhầm lẫn dẫn đến việc áp dụng
sai, mắc sai sót trong giải quyết án. Chỉ có thể áp dụng điều 623 BLDS 2005 về BTTH
do NNHCĐ gây ra khi có sự hoạt động tự thân của NNHCĐ mà không có sự tác động
bởi hành vi trái pháp luật của con người. Hành vi trái pháp luật của con người
ở đây là hành vi “sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ” làm công cụ, phương tiện gây
thiệt hại. Nếu hành vi sử dụng NNHCĐ là công cụ, phương tiện gây thiệt hại thì
trách nhiệm BTTH ở đây được xác định là trách nhiệm thông thường do hành vi
trái pháp luật gây ra. Nếu có lỗi trong việc để NNHCĐ gây thiệt hại như không
bảo trì, kiểm tra an toàn, không rà soát lỗi kỹ thuật…thì áp dụng trách nhiệm
BTTH do NNHCĐ gây ra trong trường hợp CSH, người chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ có
lỗi. Trong thực tế, việc các nhà áp dụng pháp luật thấy có thiệt hại liên quan
đến NNHCĐlà áp dụng Điều 623 để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt, đặc biệt
trong việc xác định trách nhiệm bồi thường dân sự trong các vụ án giao thông.
Theo luật, ôtô, xe máy là NNHCĐvà chủ sở hữu, người được chủ
sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng phải BTTH cả khi không có lỗi. Luật là vậy nhưng
thực tiễn giải quyết các tranh chấp BTTH do ôtô, xe máy gây ra ở các tòa, nhiều
vướng mắc đã nảy sinh…Để công bằng, cần quy định theo hướng nếu thiệt hại xảy
ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì sẽ không được bồi thường?
Ví dụ: A ký hợp đồng cho B thuê mượn xe ô tô tải để chở
hàng. C đi xe đạp trên làn đường dành cho ô tô. Tuy biết là đi sai đường nhưng
C vẫn cố tình đi tiếp. Do hạn chế tầm nhìn, ô tô của B đâm phải xe C. C tử
vong.
Theo khoản 3 Điều 623 BLDS quy định trường hợp người gây
thiệt hại không có lỗi thì chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử
dụng phương tiện giao thông vận tải cơ giới cũng phải bồi thường. Nhưng để đảm
bảo công bằng điều luật cũng đặt ra các trường hợp miễn trừ trách nhiệm là khi
thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hay thiệt hại xảy
ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết (trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác). Như vậy B không phải BTTH do NNHCĐ gây ra.
Tuy nhiên, pháp luật chưa bao quát được hết các tình huống
xảy ra. Chẳng hạn tình huống CSH, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng
phương tiện không có lỗi trong việc quản lý, sử dụng phương tiện, người điều
khiển phương tiện không có lỗi trong tai nạn nhưng thiệt hại xảy ra không phải
do lỗi cố ý của người bị thiệt hại thì sẽ giải quyết như thế nào?
1.3. Chưa xác định cụ thể
chủ thể phải BTTH khi tài sản gây ra thiệt hại
Việc xác
định chính xác chủ thể phải chịu trách nhiệm BTTH cần dựa trên nguyên nhân gây
ra thiệt hại. Chủ thể đầu tiên phải chịu trách nhiệm đó là người đang chịu
trách nhiệm quản lý, trông coi tài sản sẽ phải BTTH nếu có lỗi. Nếu không thoả
mãn 4 điều kiện BTTH để xác định trách nhiệm cho người trông coi, sử dụng tài
sản (có thiệt hại xảy ra; có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại; có lỗi của
người thực hiện hành vi trái pháp luật; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
trái pháp luật và thiệt hại xảy ra), thì trách nhiệm BTTH sẽ thuộc về chủ sở
hữu của tài sản. Tuy nhiên, cách xác định CSH của tài sản gây thiệt hại theo
quy định của pháp luật dân sự hiện hành còn nhiều bất cập khi liên quan đến tài
sản có đăng ký quyền sở hữu. Theo quy định của Điều 168 Bộ luật Dân
sự năm 2005, thì thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản có đăng ký quyền
sở hữu là thời điểm sang tên. Do vậy, người nào đứng tên trên giấy tờ đăng ký
quyền sở hữu đối với tài sản được khẳng định là CSH của tài sản và là người
phải chịu trách nhiệm khi tài sản đó gây ra thiệt hại. Thực tiễn các giao dịch
dân sự lại phát triển theo một chiều hướng khác, đó là nhiều tài sản có đăng ký
quyền sở hữu như ô tô, xe máy, nhà cửa…được mua bán trao tay (không hợp đồng
viết tay, cũng không sang tên) hoặc có lập hợp đồng mua bán, tặng cho, hay có
sự kiện thừa kế theo pháp luật hay có di chúc nhưng tài sản đó lại chưa được
làm thủ tục sang tên cho người mua, người được tặng cho, được thừa kế, thì CSH
đối với tài sản đó là người đang đứng tên trên giấy tờ sở hữu hay người mua,
người được tặng cho, được thừa kế?
2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm BTTH do
NNHCĐ gây ra
Mặc
dù Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành bộ luật này (như Nghị quyết
03/2006/NQ-HĐTP) đều dành ra những quy định riêng về trách nhiệm BTTH do NNHCĐgây
ra, tuy nhiên vẫn còn nhiều quy định bất cập, gây ra những tranh cãi, quan điểm
khác nhau trên thực tế áp dụng. Sau đây là một số quy định mà chúng tôi cho là
bất cập, cần sửa đổi, hoàn thiện:
2.1. Bổ sung khái niệm
nguồn nguy hiểm cao độ
Khái niệm NNHCĐđược quy định trong Khoản 1 Điều 623 và trong Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006 theo hướng liệt kê, vì vậy không đầy đủ, thậm chí không
thống nhất với các quy định trong các văn bản pháp luật khác. Chẳng hạn, theo Nghị quyết này, nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu
giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp có lỗi trong việc để NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (không tuân thủ hoặc
tuân thủ không đầy đủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng NNHCĐtheo
quy định của pháp luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng
trái pháp luật BTTH do NNHCĐgây ra. Sự giải thích trong Nghị quyết nói trên
cũng chỉ dừng lại ở đó. Như vậy câu hỏi thế nào là không tuân thủ hoặc tuân thủ
không đầy đủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng NNHCĐtheo
quy định của pháp luật thì chưa được giải thích và hướng dẫn cụ thể.
Vì
vậy, em kiến nghị không nên định nghĩa NNHCĐtheo
hướng liệt kê mà chỉ cần xác định tiêu chí chung để được coi là nguồn nguy hiểm
cao độ.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ
gây ra phát sinh khi thỏa mãn 3 điều kiện: Có thiệt hại xảy ra; Có việc gây
thiệt hại trái pháp luật của NNHCĐ; Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy
ra với việc gây thiệt hại trái pháp luật của NNHCĐ.
Để tạo cách hiểu chung thống nhất trong
mọi trường hợp, em kiến nghị sửa đổi khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005 theo
hướng bỏ cụm từ “cả khi không có lỗi”. Cụ thể: “CSH, người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ phải bồi thường thiệt
hại do tự thân sự hoạt động của NNHCĐgây ra, trừ các trường hợp sau…”.
Tự thân NNHCĐ không thể gây thiệt hại
trong tình thế cấp thiết. Việc quy định miễn trách nhiệm bồi thường do NNHCĐgây
ra trong tình thế cấp thiết là không cần
thiết và không hợp lý. Vì vậy, em kiến nghị bỏ “gây thiệt hại trong tình thế cấp
thiết” là một trong những trường hợp
được miễn trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra được liệt kê tại điểm b, khoản 3,
Điều 623 BLDS và và điểm c, mục 2, phần III Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP.
Thực tiễn cho thấy khi xét xử, nhiều trường
hợp cứ thấy thiệt hại có liên quan đến NNHCĐ là áp dụng trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra, bất kể nguyên nhân gây thiệt hại là do con người
hay do tự thân NNHCĐ gây ra. Vì vậy, cần có quy định rõ ràng về việc trách nhiệm BTTH do NNHCĐgây ra chỉ
phát sinh khi thiệt hại là do sự tác động tự thân của NNHCĐgây ra.
Trong
thực tiễn xét xử ở Việt Nam, khi xác định chủ thể liên đới chịu trách nhiệm
BTTH, một trong những khó khăn thường gặp phải đó là khả năng, trình độ nhận
thức của Thẩm phán, của những người áp dụng pháp luật. Không hiếm trường hợp
quyết định của Tòa án bắt buộc chủ thể phải chịu trách nhiệm liên đới BTTH
trong khi chủ thể hầu như hoàn toàn không có lỗi. Bên cạnh đó, cũng có không ít
trường hợp, theo nguyên tắc phải áp dụng trách nhiệm liên đới BTTH nhưng quyết
định của Tòa án lại không như vậy. Kết quả là bản án khó có thể bảo đảm được
tính công bằng, thuyết phục cao và như vậy khả năng tranh chấp dễ kéo dài và
Tòa án phải xét xử qua nhiều cấp.
Để
tránh những trường hợp nói trên pháp
luật dân sự cần hoàn
thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm liên đới BTTH
Hiện nay, pháp luật dân sự mới chỉ dự liệu những NNHCĐ được chuyển giao thông qua các giao dịch dân sự như
thuê, mượn, cầm cố, thế chấp mà chưa dự liệu trường hợp khi chủ sở hữu NNHCĐ giao kết hợp đồng mua bán nhưng người mua chưa hoàn tất
thủ tục sang tên nhưng đã sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, gây thiệt hại cho
những người xung quanh thì trách nhiệm lúc này thuộc về người bán hay người
mua. Trong trường hợp này phải xem xét đến lỗi của người bán
hay người mua trong việc thực hiện thủ tục pháp lý chuyển quyền sở hữu đối với
tài sản mua hay là lỗi của cả hai bên. Pháp luật dân sự nên quy định cụ thể về
vấn đề này để xác định ai là người phải chịu trách nhiệm BTTH trong từng trường
hợp cụ thể.
Em có kiến nghị sửa đổi các quy định về
mức bồi thường trong Bộ luật dân sự 2005 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP theo
hướng: Bên cạnh mức tối đa, các nhà làm luật cũng cần bổ sung mức bồi thường
tổn thất tinh thần tối thiểu, để các thẩm phán có cơ sở giải quyết mức bồi
thường trong từng trường hợp cụ thể, đảm bảo tính công bằng cho các bên đương
sự trong từng vụ án. Nâng cao hơn nữa mức bồi thường tổn thất về tinh thần
trong trường hợp người bị thiệt hại về tính mạng. Mức 60 tháng lương tối thiểu
như hiện nay theo em không tương xứng so với những thiệt hại mà nạn nhân và
người thân phải gánh chịu.
Cùng với việc hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, cần
phải nâng cao năng lực đội ngũ Thẩm phán của nước nhà. Thực tiễn mấy chục năm
qua cho thấy rằng, khi xét xử các Thẩm phán của chúng ta thường có thói quen
quy chiếu khi áp dụng luật: quy chiếu vào Bộ luật, quy chiếu vào hướng dẫn của
Tòa án tối cao. Rõ ràng, khi xét xử theo thói quen quy chiếu thì việc nâng cao
năng lực của Thẩm phán sẽ gặp rất nhiều khó khăn và quan trọng là không phù hợp
với yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ
của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta là nâng cao năng lực của đội ngũ Thẩm
phán để có được một đội ngũ Thẩm phán giỏi, có khả năng độc lập tư duy, phát
hiện vấn đề.
Trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra là một
chế định phức tạp của pháp luật dân sự. Tính phức tạp không chỉ nằm trong những
quy định của pháp luật hiện hành mà còn ở trong nhận thức, quan niệm của mỗi
người về bản chất, điều kiện làm phát
sinh trách nhiệm này.
Hiện nay vấn đề BTTH do NNHCĐ gây ra
được quy định trong BLDS 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan. Tuy đã có
những hướng dẫn cụ thể nhưng khi áp dụng vào thực tiễn xét xử thì vẫn gặp những
vướng mắc, khó khăn. Từ đó, ta có thể nhìn thấy những kẽ hở của pháp luật, đồng
thời có những kiến nghị sửa đổi bổ sung. Việc hoàn thiện các quy định của pháp
luật về BTTH do NNHCĐ gây ra sẽ góp phần nâng cao hơn ý thức của CSH, người
được CSH giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ hợp pháp trong việc sử dụng, vận hành
tài sản nhằm giảm bớt những thiệt hại không đáng có về người và của. Đồng thời
bảo vệ được quyền lợi cho người bị thiệt hại trong trường hợp xảy ra thiệt
hại./.
![]() |
![]() |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét