LUẬN
CỨ
BẢO
VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
I. Tóm tắt vụ
án
1. Đương sự
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Chí Công Sinh
năm: 1962
Nơi đăng ký HKTT: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Chỗ ở hiện tại: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Nơi đăng ký HKTT: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Chỗ ở hiện tại: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
- Bị đơn: Bà Võ
Thị Hận Sinh năm: 1960
Nơi đăng ký HKTT: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Chỗ ở hiện tại: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Nơi đăng ký HKTT: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Chỗ ở hiện tại: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
- Người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1, Ông Nguyễn Văn Trừ, SN 1935
2, Bà Nguyễn Thị Tươi, SN 1937
3, Nguyễn Minh Hiếu SN 1984
4, Nguyễn Thị Nga SN 1985
Cùng trú tại: Khu 1, Thôn
Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
5, Bà Hồ Thị Chum, SN
1934
Trú tại: thôn Vạn Hạn,
thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
6, Bà Võ Thị Gái SN 1964
7, Ông Nguyễn Thành Tâm,
Sn 1974
Trú tại: Khu 3, Thôn Ngọc
Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
2. Nội dung vụ án:
Ông Nguyễn chí Công và Bà Võ Thị Hận
xây dựng gia đình tháng 2 năm 1983, có đăng ký kết hôn ngày 22/3/1983 tại xã
Phú Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai (nay lạ thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân
Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu).
Thời gian đầu chung sống hạnh phúc
và sinh hạ được hai người con là:
Nguyễn Minh Hiếu
sinh năm: 1984
Nguyễn Thị Nga
sinh năm 1985
Sau một thời gian chung sống, giữa
ông bà đã phát sinh mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng bị phai nhạt. Đến năm 2003, Ông
Công thường xuyên bỏ nhà đi chung sống với người phụ nữ khác và có 1 con riêng.
Năm 2005, bà Hận có đơn yêu cầu ly
hôn với ông Nguyễn Chí Công nhưng qua đó rút đơn và cũng từ đó hai ông bà sống
ly thân cho đến nay.
Ngày 08/08/2006 ông công đã nộp đơn
xin ly hôn Tòa án nhân dân huyện Tân Thành đề nghị xử cho ông được ly hôn với
bà Võ Thị Hận và giải quyết vấn đề tài sản.
Về tài
sản:
1 căn nhà cấp 4 A5 diện tích 67,60 m² ( 5,2m x 13m)
1 căn nhà tạm A1 có diện tích 61,36m² (5,2m x 11,8m)
1 thửa đất 132m² ( hiện nay đo đạc thực tế là 128,96
m²).
Ngoài vấn đề chia tài sản, bà Hận
còn yêu cầu thanh toán nợ chung của gia đình. Về công nợ:
- Ông Công, bà Hận còn nợ bà Chum 1 lượng vàng và
600.000 đ
- Ông Công, bà Hận vay em gái là Võ Thị Gái 8.000.000
đ
II. Dự kiến
phần xét hỏi
Với tư cách là người bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của bị đơn, tôi dự kiến sẽ đặt ra các câu hỏi như sau:
* Hỏi nguyên
đơn
1. Thửa đất hiện đang tranh chấp có được cấp giáy
chứng nhận quyền sử dụng đất hay không ? Giấy chứng nận quyền sử dụng đất đó
được cấp riêng cho ông hay cho hộ gia đình ông ?
2. Nguồn gốc thửa đất đó từ đâu mà có ? có giấy tờ gì
chứng minh việc chuyển nhượng hợp pháp hay không?
3. Tại bản tự khai ngày 18/7/2007, Ông Trừ có khai
rằng có cho riêng ông thửa đất và giấy
tờ cho đất có làm di chúc. Hiện nay Ông Trừ còn sống hay không ?
4. Việc bà Chu m ( mẹ
ruột bà Hận) cho tiền bà Hận để xây dựng ngôi nhà ông có biết hay không ?
5. Việc bà Hận vay tiền mẹ và em gái ruột để xây
dựng, duy trì và bảo quản ngôi nhà ông có biết hay không?
6. Ông thường xuyên vắng nhà như vậy thì Ông có đóng
góp gì trong việc xây dựng nhà ? Ông đóng góp bao nhiêu vào việc tạo dựng ngôi nhà ?
7. Với số tài sản đóng góp của ông có đủ để xây dựng
ngôi nhà hay không?
8. Hiện nay ông đang ở đâu? Ngoài ngôi nhà mà bà Hận
và các con đang sinh sống ông còn chỗ ở nào khac hay không?
9. Hiện nay, ông có việc làm hay không ? thu nhập
hàng tháng là bao nhiêu?
* Hỏi bị đơn:
1. Trong thời gian chung sống, ông Công có đóng góp
gì trong việc tạo dựng, duy trì bảo quản ngôi nhà không?
2. Ông Công có tham gia chăm sóc, nuôi dạy các con
trưởng thanh không?
3. Hiện tại, bà và các con đang sống ở đâu? Ngoài
ngôi nhà này ra, bà còn chỗ ở nào khác không?
4. Hiện nay bà có công việc ổn định không ? Thu nhập
hàng tháng là bao nhiêu?
III. Bản luận
cứ.
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Tôi là Nguyễn Văn A thuộc Văn phòng luật sư XYZ và cộng sự, Đoàn luật sư
thành phố Hà Nội. Nhận lời mời của Bà Võ Thị Hận và được sự chấp thuận của Tòa
án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, tôi tham gia phiên Toà ngày
hôm nay với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn bà Võ Thị Hận trong vụ án "Ly
hôn" do Toà án huyện Tân Thành thụ lý số: 15/TLST-HNGĐ ngày
28/8/2007 giữa:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Chí Công Sinh năm: 1962
Chỗ ở hiện tại: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Chỗ ở hiện tại: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
- Bị đơn: BàVõ Thị Hận Sinh
năm: 1960
Chỗ ở hiện tại: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Chỗ ở hiện tại: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Thưa Hội đồng xét xử !
Sau khi nghiên cứu hồ sơ có trong
vụ án và nghe phần hỏi tại phiên tòa ngày hôm nay, tôi xin đưa ra quan điểm của
mình như sau:
Thứ nhất, về quan hệ nhân
thân. Ông Nguyễn Chí Công và và Bà Võ Thị Hận xây dựng gia đình tháng 2 năm
1983, có đăng ký kết hôn ngày 22/3/1983 tại xã Phú Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh
Đồng Nai (nay lạ thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu). Trong
quá trình chung sống, giữa ông bà đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn, ông Nguyễn Chí
Công thường bỏ nhà đi, có quan hệ với người phụ nữ khác và đã có con. Như vậy,
mâu thuẫn giữa bà Hận và ông Công đã rất trầm trọng, tình cảm giữa hai người
không còn, không thể hàn gắn, cuộc sống chung không thể kéo dài, nếu tiếp tục
duy trì cuộc sống như hiện tại chỉ làm đau khổ cho cả hai bên.
Thứ hai, về quan hệ con
cái. Ông Công và bà Hận có hai người con chung là nguyễn Minh Hiếu và Nguyễn
Thị Nga. Hiện tại cả hai người con đều đã trưởng thành và có thể tự lo cho cuộc
sống riêng của mình nên không yêu cầu giải quyết.
Thứ ba, về quan hệ tài
sản. Cả ông Công và bà Hận đều thống nhất về tài sản chung là căn nhà cấp 4 A5
diện tích 67,6 m² và căn nhà tạm A1 diện
tích 61,36m² được xây dựng trên thửa đất 132 m²( diện tích đo thực tế là 128,
96 m²). Căn cứ vào biên bản định giá tài sản lập ngày 15/8/2007 tổng giá trị
căn nhà cấp 4A5 và căn nhà tạm A1 là 45.572.800đ ( Bốn mươi lăm triệu năm trăm
bảy mươi hai ngàn tám trăm đồng ). Đây là tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, bà Hận có công chăm sóc, duy trì và bảo quản tài sản,
trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Ông Nguyễn Chí Công thường xuyên
vắng nhà, không có công chăm sóc, duy trì bảo quản tài sản, xét thấy công sức
đóng góp của bà Hận trong việc tạo lập tài sản chung là 2 căn nhà là nhiều hơn.
Về thửa đất đang tranh chấp: nguồn
gốc diện tích đất tranh chấp là của ông Nguyễn
Vă n Trừ và bà Nguyễn Thị Tươi.
Sau khi ông công và bà Hận lấy nhau một thời gian ngắn, ông Trừ bà Tươi đã cho
vợ chông ông Công bà Hận 200m² đất để làm nhà. Sau đó vợ chông ông Công, bà Hận
đã làm nhà từ nguồn tiền nhà nước đền bù do thu hồi đất và tiền do mẹ vợ cho.
Như vậy, ý chí đích thực của ông Trừ, bà tươi là cho đất cho cả ông Công bà
Hận, chứ không phải cho riêng ông Công. Điều này được chính ông Công xác nhận
trong Biên bản làm việc ngày 11/12/2006 tại UBND thị trấn Phú Mỹ : “ diện tích đất này nguyên trước kia cha ông
cho để vợ cồng cất nhà ở” và tại
phiên tòa sơ thẩm ông cũng đã thừa nhận.
Đến năm 1995, ông Trừ làm đơn ủy
quyền diện tích đất nêu trên cho con. Sau khi có giấy ủy quyền, ông Công đã kê
khai đăng ký và ngày 9/12/2002 UBND
huyện Tân Thành đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Chí Công, và không ai có
khiếu nại hay ý kiến phản đối gì (BL 28).
Do vậy có đủ căn cứ để xác định
diện tích đất đang tranh chấp 132 m² ( Đo thực tế là 128,96 m²) là tài sản
chung của vợ chông ông Công, bà Hận.
Bởi các lẽ trên,
tôi kính đề nghị HĐXX:
1/ Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào Điều 89 Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2000, Mục 8 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2000 chấp thuận cho bà Võ Thị Hận dược ly hôn với ông
Nguyễn Chí Công.
2/ Về quan hệ con cái: không yêu
cầu Tòa án giải quyết.
3/ Về quan hệ tài sản:
- Công nhận căn nhà cấp 4 A5 diện tích 67,60 m² (
5,2m x 13m); căn nhà tạm A1 có diện tích 61,36m² (5,2m x 11,8m); thửa đất 132m²
( hiện nay đo đạc thực tế là 128,96 m²) thuộc tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân.
- Căn cứ vào Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân:
Về thửa đất: căn cứ vào bảng giá đất
do UBND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu ban hành ngày
1/1/2007 thì tại khu vực thửa đất tọa lac có giá 2.016.000đ /m². thửa đất có
giá 2.016.000đ x 128,96m² = 260.000.000đ
Về nhà ở: có 1 căn nhà cấp 4A5 và 1
căn nhà tạm A1 có tổng giá trị là 45.572.800đ. Tổng giá trị tài sản chung là
305.572.800đ. Áp dụng điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chia cho bà
Hận hưởng ½ tổng giá trị khối tài sản chung = 152.786.400đ. Xét hiện trạng cả
hai căn nhà được xây dựng trên toàn bộ
diện tích đất, 2 căn không tách biệt, không có thể chia nhà đất bằng hiện vật
cho cả hai bên. Bà Hận đã ở nhà này liên tục từ trước đến nay và hiện cả hai
con cũng cùng ở nhà, đất này. Cả 3 mẹ con không có việc làm, thu nhập duy nhất
từ nguồn tiền cho thuê căn nhà phía trước cũng không có nơi ở nào khác. Ông
Công cũng đã xác nhận rằng ông không thường xuyên ở tại nhà, đất này, thu nhập
của ông khoảng 3.000.000đ/ tháng.
XEM THÊM: THÀNH LẬP CHI NHÁNH CÔNG TY
Do vậy, xét về nhu cầu nhà ở cũng
như việc tạo lập nơi ở mới, để bảo vệ
quyền lợi của phụ nữ cũng như 2 người con hiện chưa có việc làm, cần giao cho
bà Hận được hưởng bằng hiện vật toàn bộ giá trị nhà , đất và có trách nhiệm
thanh toán lại cho ông Công ½ giá trị tài sản nhà và đất. Tài sản mà ông Công
được hưởng là 152.786.400đ ( 305.572.800đ
x ½) là phù hợp với thực tế và
quy định của pháp luật.
Kính thưa Quý Tòa! Trên đây là một
số quan điểm của tôi đề nghị HĐXX xem xét, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự theo đúng quy định của pháp luật.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Người bảo vệ quyền và lợi ích cho nguyên
đơn
Nguyễn Văn A
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét