Thứ Hai, 27 tháng 6, 2016

BÀI TẬP LỚN MÔN KỸ NĂNG TƯ VẤN VÀ BẢO VỆ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

LUẬN CỨ
BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP

I. Tóm tắt vụ án
1. Đương sự
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Chí Công       Sinh năm:  1962           
Nơi đăng ký HKTT: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa  Vũng Tàu. 
Chỗ ở hiện tại: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. 
- Bị đơn: Võ Thị Hận                            Sinh năm:  1960  
Nơi đăng ký HKTT: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. 
Chỗ ở hiện tại: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. 
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1, Ông Nguyễn Văn Trừ, SN 1935
2, Bà Nguyễn Thị Tươi, SN 1937
3, Nguyễn Minh Hiếu SN 1984
4, Nguyễn Thị Nga SN 1985
Cùng trú tại: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa  Vũng Tàu. 
5, Bà Hồ Thị Chum, SN 1934
Trú tại: thôn Vạn Hạn, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
6, Bà Võ Thị Gái SN 1964
7, Ông Nguyễn Thành Tâm, Sn 1974
Trú tại: Khu 3, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa  Vũng Tàu.
2.  Nội dung vụ án:
Ông Nguyễn chí Công và Bà Võ Thị Hận xây dựng gia đình tháng 2 năm 1983, có đăng ký kết hôn ngày 22/3/1983 tại xã Phú Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai (nay lạ thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu).
Thời gian đầu chung sống hạnh phúc và sinh hạ được  hai người con là:
Nguyễn Minh Hiếu  sinh năm: 1984
Nguyễn Thị Nga  sinh năm 1985
Sau một thời gian chung sống, giữa ông bà đã phát sinh mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng bị phai nhạt. Đến năm 2003, Ông Công thường xuyên bỏ nhà đi chung sống với người phụ nữ khác và có 1 con riêng.
Năm 2005, bà Hận có đơn yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Chí Công nhưng qua đó rút đơn và cũng từ đó hai ông bà sống ly thân cho đến nay.
Ngày 08/08/2006 ông công đã nộp đơn xin ly hôn Tòa án nhân dân huyện Tân Thành đề nghị xử cho ông được ly hôn với bà Võ Thị Hận và giải quyết vấn đề tài sản.
          Về tài sản:
1 căn nhà cấp 4 A5 diện tích 67,60 m² ( 5,2m x 13m)
1 căn nhà tạm A1 có diện tích 61,36m² (5,2m x 11,8m)        
1 thửa đất 132m² ( hiện nay đo đạc thực tế là 128,96 m²).
Ngoài vấn đề chia tài sản, bà Hận còn yêu cầu thanh toán nợ chung của gia đình. Về công nợ:
- Ông Công, bà Hận còn nợ bà Chum 1 lượng vàng và 600.000 đ
- Ông Công, bà Hận vay em gái là Võ Thị Gái 8.000.000 đ
II. Dự kiến phần xét hỏi
Với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn, tôi dự kiến sẽ đặt ra các câu hỏi như sau:
* Hỏi nguyên đơn
1. Thửa đất hiện đang tranh chấp có được cấp giáy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không ? Giấy chứng nận quyền sử dụng đất đó được cấp riêng cho ông hay cho hộ gia đình ông ?
2. Nguồn gốc thửa đất đó từ đâu mà có ? có giấy tờ gì chứng minh việc chuyển nhượng hợp pháp hay không?
3. Tại bản tự khai ngày 18/7/2007, Ông Trừ có khai rằng  có cho riêng ông thửa đất và giấy tờ cho đất có làm di chúc. Hiện nay Ông Trừ còn sống hay không ?
4. Việc bà Chum ( mẹ ruột bà Hận) cho tiền bà Hận để xây dựng ngôi nhà ông có biết hay không ?
5. Việc bà Hận vay tiền mẹ và em gái ruột để xây dựng, duy trì và bảo quản ngôi nhà ông có biết hay không?
6. Ông thường xuyên vắng nhà như vậy thì Ông có đóng góp gì trong việc xây dựng nhà ? Ông đóng góp bao nhiêu vào việc tạo dựng  ngôi nhà ?
7. Với số tài sản đóng góp của ông có đủ để xây dựng ngôi nhà hay không?
8. Hiện nay ông đang ở đâu? Ngoài ngôi nhà mà bà Hận và các con đang sinh sống ông còn chỗ ở nào khac hay không?
9. Hiện nay, ông có việc làm hay không ? thu nhập hàng tháng là bao nhiêu?
* Hỏi bị đơn:
1. Trong thời gian chung sống, ông Công có đóng góp gì trong việc tạo dựng, duy trì bảo quản ngôi nhà không?
2. Ông Công có tham gia chăm sóc, nuôi dạy các con trưởng thanh không?
3. Hiện tại, bà và các con đang sống ở đâu? Ngoài ngôi nhà này ra, bà còn chỗ ở nào khác không?
4. Hiện nay bà có công việc ổn định không ? Thu nhập hàng tháng là bao nhiêu?
III. Bản luận cứ.
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Tôi là Nguyễn Văn A thuộc Văn phòng luật sư XYZ và cộng sự, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Nhận lời mời của Bà Võ Thị Hận và được sự chấp thuận của Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, tôi tham gia phiên Toà ngày hôm nay với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn bà Võ Thị Hận trong vụ án "Ly hôn" do Toà án huyện Tân Thành thụ lý số: 15/TLST-HNGĐ ngày 28/8/2007 giữa:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Chí Công                  Sinh năm:  1962  
Chỗ ở hiện tại: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. 
- Bị đơn: Võ Thị Hận                                      Sinh năm:  1960  
Chỗ ở hiện tại: Khu 1, Thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Thưa Hội đồng xét xử !
Sau khi nghiên cứu hồ sơ có trong vụ án và nghe phần hỏi tại phiên tòa ngày hôm nay, tôi xin đưa ra quan điểm của mình như sau:
Thứ nhất, về quan hệ nhân thân. Ông Nguyễn Chí Công và và Bà Võ Thị Hận xây dựng gia đình tháng 2 năm 1983, có đăng ký kết hôn ngày 22/3/1983 tại xã Phú Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai (nay lạ thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu). Trong quá trình chung sống, giữa ông bà đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn, ông Nguyễn Chí Công thường bỏ nhà đi, có quan hệ với người phụ nữ khác và đã có con. Như vậy, mâu thuẫn giữa bà Hận và ông Công đã rất trầm trọng, tình cảm giữa hai người không còn, không thể hàn gắn, cuộc sống chung không thể kéo dài, nếu tiếp tục duy trì cuộc sống như hiện tại chỉ làm đau khổ cho cả hai bên.
Thứ hai, về quan hệ con cái. Ông Công và bà Hận có hai người con chung là nguyễn Minh Hiếu và Nguyễn Thị Nga. Hiện tại cả hai người con đều đã trưởng thành và có thể tự lo cho cuộc sống riêng của mình nên không yêu cầu giải quyết.
Thứ ba, về quan hệ tài sản. Cả ông Công và bà Hận đều thống nhất về tài sản chung là căn nhà cấp 4 A5 diện tích  67,6 m² và căn nhà tạm A1 diện tích 61,36m² được xây dựng trên thửa đất 132 m²( diện tích đo thực tế là 128, 96 m²). Căn cứ vào biên bản định giá tài sản lập ngày 15/8/2007 tổng giá trị căn nhà cấp 4A5 và căn nhà tạm A1 là 45.572.800đ ( Bốn mươi lăm triệu năm trăm bảy mươi hai ngàn tám trăm đồng ). Đây là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, bà Hận có công chăm sóc, duy trì và bảo quản tài sản, trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Ông Nguyễn Chí Công thường xuyên vắng nhà, không có công chăm sóc, duy trì bảo quản tài sản, xét thấy công sức đóng góp của bà Hận trong việc tạo lập tài sản chung là 2 căn nhà là nhiều hơn.
Về thửa đất đang tranh chấp: nguồn gốc diện tích đất tranh chấp là của ông Nguyễn n Trừ và bà Nguyễn Thị Tươi. Sau khi ông công và bà Hận lấy nhau một thời gian ngắn, ông Trừ bà Tươi đã cho vợ chông ông Công bà Hận 200m² đất để làm nhà. Sau đó vợ chông ông Công, bà Hận đã làm nhà từ nguồn tiền nhà nước đền bù do thu hồi đất và tiền do mẹ vợ cho. Như vậy, ý chí đích thực của ông Trừ, bà tươi là cho đất cho cả ông Công bà Hận, chứ không phải cho riêng ông Công. Điều này được chính ông Công xác nhận trong Biên bản làm việc ngày 11/12/2006 tại UBND thị trấn Phú Mỹ : “ diện tích đất này nguyên trước kia cha ông cho  để vợ cồng cất nhà ở” và tại phiên tòa sơ thẩm ông cũng đã thừa nhận.
Đến năm 1995, ông Trừ làm đơn ủy quyền diện tích đất nêu trên cho con. Sau khi có giấy ủy quyền, ông Công đã kê khai  đăng ký và ngày 9/12/2002 UBND huyện Tân Thành đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Chí Công, và không ai có khiếu nại hay ý kiến phản đối gì (BL 28).
Do vậy có đủ căn cứ để xác định diện tích đất đang tranh chấp 132 m² ( Đo thực tế là 128,96 m²) là tài sản chung của vợ chông ông Công, bà Hận.
Bởi các lẽ trên, tôi kính đề nghị HĐXX:
1/ Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào Điều 89 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Mục 8 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 chấp thuận cho bà Võ Thị Hận dược ly hôn với ông Nguyễn Chí Công.
2/ Về quan hệ con cái: không yêu cầu Tòa án giải quyết.
3/ Về quan hệ tài sản:
- Công nhận căn nhà cấp 4 A5 diện tích 67,60 m² ( 5,2m x 13m); căn nhà tạm A1 có diện tích 61,36m² (5,2m x 11,8m); thửa đất 132m² ( hiện nay đo đạc thực tế là 128,96 m²) thuộc tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
- Căn cứ vào Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân:
Về thửa đất: căn cứ vào bảng giá đất do UBND tỉnh Rịa Vũng Tàu ban hành ngày 1/1/2007 thì tại khu vực thửa đất tọa lac có giá 2.016.000đ /m². thửa đất có giá 2.016.000đ x 128,96m² = 260.000.000đ
Về nhà ở: có 1 căn nhà cấp 4A5 và 1 căn nhà tạm A1 có tổng giá trị là 45.572.800đ. Tổng giá trị tài sản chung là 305.572.800đ. Áp dụng điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chia cho bà Hận hưởng ½ tổng giá trị khối tài sản chung = 152.786.400đ. Xét hiện trạng cả hai căn nhà  được xây dựng trên toàn bộ diện tích đất, 2 căn không tách biệt, không có thể chia nhà đất bằng hiện vật cho cả hai bên. Bà Hận đã ở nhà này liên tục từ trước đến nay và hiện cả hai con cũng cùng ở nhà, đất này. Cả 3 mẹ con không có việc làm, thu nhập duy nhất từ nguồn tiền cho thuê căn nhà phía trước cũng không có nơi ở nào khác. Ông Công cũng đã xác nhận rằng ông không thường xuyên ở tại nhà, đất này, thu nhập của ông khoảng 3.000.000đ/ tháng. 
Do vậy, xét về nhu cầu nhà ở cũng như việc tạo lập  nơi ở mới, để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ cũng như 2 người con hiện chưa có việc làm, cần giao cho bà Hận được hưởng bằng hiện vật toàn bộ giá trị nhà , đất và có trách nhiệm thanh toán lại cho ông Công ½ giá trị tài sản nhà và đất. Tài sản mà ông Công được hưởng là 152.786.400đ ( 305.572.800đ  x  ½) là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật.
Kính thưa Quý Tòa! Trên đây là một số quan điểm của tôi đề nghị HĐXX xem xét, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo đúng quy định của pháp luật.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!
     Người bảo vệ quyền và lợi ích cho nguyên đơn


     Nguyễn Văn A       

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét