KHÁI NIỆM LỪA DỐI
Lừa
dối là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày. Theo cách
nói thông thường, lừa dối là lừa bằng thủ đoạn nói dối, gian lận để làm cho
người ta nhầm tưởng mà nghe theo, tin theo, ví dụ: thủ đoạn lừa dối của con
buôn(1). Theo ngôn ngữ pháp luật, lừa dối là một xảo thuật dùng để lừa gạt
người khác. Từ những lời lẽ gian dối đến mánh khóe xảo trá dùng để khiến người
ta giao kết hợp đồng đều là lừa dối(2). Cũng có cách hiểu: “Lừa dối là hành vi
cố ý đưa thông tin sai không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật.
Nếu không có các thủ đoạn ấy thì bên kia sẽ không giao kết hợp đồng”(3). Các
nhà khoa học pháp lý cũng như các nhà lập pháp Việt Nam coi lừa dối trong giao
dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về
chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập
giao dịch đó(4). Dù cách sử dụng ngôn từ có khác nhau song nội dung của các
khái niệm trên là không khác nhau. Đó là, không phải bất cứ sự nói dối nào cũng
đều bị coi là lừa dối và việc xác định có tồn tại hay không sự lừa dối trong
giao kết hợp đồng phải có hai điều kiện: một là, một bên phải sử dụng thủ đoạn
để lừa người khác và hai là, người kia phải nghe theo, làm theo một việc nào đó
(giao kết hợp đồng).
Thuật
ngữ pháp lí “lừa dối” được hình thành từ thời La Mã. Cổ luật La Mã lúc đầu đã
coi lừa dối như một tội phạm hình sự, theo đó những kẻ lừa dối sẽ bị trừng phạt
đối với sự lừa dối mang tính chất quan trọng. Dần dần lừa dối đã được sử dụng
trong lĩnh vực dân sự và xem nó như một trong các yếu tố có thể làm cho hợp
đồng vô hiệu hay nói cách khác khi có lừa dối, sự thỏa thuận trở thành khiếm
khuyết và bên bị lừa dối có quyền yêu cầu vô hiệu hợp đồng.
Tuy
nhiên, trên thực tế làm thế nào để xác định có sự lừa dối là vấn đề rất phức
tạp. Một sự khẳng định của người bán hàng về thực trạng mà anh ta không biết có
phải là sự lừa dối không? Năng lực của người kí kết hợp đồng có ý nghĩa gì
không trong việc xác định có hay không có sự lừa dối?
Khoa
học pháp lý đã đưa ra những điều kiện để xác định khi nào thì lừa dối tồn tại.
Phần lớn pháp luật các nước đều coi những lừa dối có tính chất quyết định đến
sự giao kết hợp đồng là yếu tố vô hiệu hợp đồng. Tính chất quyết định thể hiện
ở chỗ nếu không dùng các mánh khóe như vậy thì sẽ không có giao kết hợp đồng.
“Sự lừa dối là căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu khi các thủ đoạn do một bên đã
thực hiện mà nếu không có các thủ đoạn đó thì bên kia đã không kí kết hợp
đồng”(5). Việc một người bán hàng khoe không đúng sự thật về hàng hóa của mình
hoặc người bán hàng nói giá quá cao (nói thách) thì không bị xem là lừa dối,
bởi lẽ trong các trường hợp này người tiếp nhận thông tin không bị buộc phải kí
hợp đồng nếu họ không muốn.
Lừa
dối chỉ được coi là yếu tố dẫn đến vô hiệu hợp đồng khi một bên cố ý làm cho
bên kia phải giao kết hợp đồng không theo ý muốn thực. Lừa dối và nhầm lẫn đều
là những khiếm khuyết của sự thể hiện ý chí của các bên trong giao kết hợp đồng
và đều giống nhau ở chỗ cả hai đều liên quan đến việc trình bày một cách trực
tiếp hay gián tiếp về những sự việc không đúng sự thật hay không tiết lộ một sự
thật. Song sự lừa dối khác với nhầm lẫn ở chỗ: Sự nhầm lẫn vốn do người kí kết
hợp đồng tự mình hiểu sai còn sự lừa dối là sự hiểu sai do đối phương gây ra.
Sự phân biệt giữa lừa dối và nhầm lẫn được xác định bởi tính chất và mục đích
của việc trình bày gian lận của một bên. Nhầm lẫn hay lừa dối đều đưa đến hệ
quả là hợp đồng có thể bị vô hiệu do thỏa thuận không thể hiện đúng ý chí thật
của các bên.
Về
nguyên tắc, hành vi lừa dối phải do chính một bên giao kết hợp đồng thực hiện.
Tuy nhiên, dù một người kí kết hợp đồng không trực tiếp thực hiện hành vi gian
trá nhưng đã tham gia hoặc đồng lõa với hành vi gian trá đó thì hành vi này
cũng được coi là do chính người kí hợp đồng thực hiện. Đối với người thứ ba
ngay tình thì sự ảnh hưởng của hậu quả pháp lí không được tính đến. Pháp luật
của một số nước, trong một số trường hợp coi sự kiện không nói ra điều mà người
kí có trách nhiệm phải nói khi kí hợp đồng cũng được coi là hành vi gian trá và
trong một số trường hợp pháp luật cũng thừa nhận việc khai gian hay im lặng
trong trường hợp xét một cách hợp lý phải thông tin cho người cùng giao kết
biết là lừa dối. Khi đưa ra nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế, Unidroit(6)
đã ghi nhận nguyên tắc: ”Một bên trong hợp đồng được phép vô hiệu hợp đồng, nếu
bên đó giao kết hợp đồng do bị phía bên kia lừa dối về sự việc, kể cả trong
ngôn ngữ hoặc hành vi, hoặc do bên kia (bên lừa dối) không cung cấp thông tin
về các yếu tố, mà theo những tiêu chuẩn thông thường về công bằng và hợp lí
trong thương mại họ phải đựoc thông báo”(7). Như vậy, pháp luật nhiều nước cũng
như nguyên tắc thương mại quốc tế không chỉ giới hạn sự biểu hiện của lừa dối ở
hành vi, lời nói mà thừa nhận cả trường hợp một bên không cung cấp thông tin
hoặc im lặng khi xét một cách hợp lí là họ phải có nghĩa vụ thông báo. Đây là
điểm mà pháp luật của Việt Nam còn bỏ ngỏ. Pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ coi
những hành vi cố ý của một bên mà không thừâ nhận sự im lặng hoặc không thông
tin khi có nghiã vụ thông tin đến người cùng giao kết hợp đồng là lừa dối.
Chính cách tiếp cận như trên của pháp luật đã không giải quyết được một trong
các vấn đề nảy sinh của thực tiễn thực hiện các hợp đồng mua bảo hiểm ở Việt
Nam trong thời gian gần đây là làm thế nào để bảo vệ người mua bảo hiểm trước
sự thiếu hiểu biết của người mua bảo hiểm đối với các hợp đồng bảo hiểm vô cùng
phức tạp. Trong trường hợp này nếu không có sự giải thích, hướng dẫn của bên
bảo hiểm thì người mua không thể hiểu một cách đầy đủ trước khi kí kết hợp
đồng. Bên cạnh đó pháp luật cũng không thừa nhận sự lừa dối gián tiếp thông qua
người thứ ba là yếu tố làm cho hợp đồng có thể vô hiệu.
Trong
giai đoạn hiện nay các hợp đồng mẫu đóng vai trò quan trọng trong việc điều
chỉnh các quan hệ tài sản. Phần lớn các hợp đồng trong lĩnh vực vận tải, dịch
vụ đại chúng như cung ứng điện nước… đều được kí kết trên cơ sở các hợp đồng
mẫu. Những hợp đồng mẫu nhờ tính phổ biến và thông dụng mà trở thành tập quán
thương mạI(8). Những hợp đồng này đã hình thành nên mối quan hệ không bình
đẳng. Vì vậy, đòi hỏi pháp luật phải có các qui định mang tính ràng buộc điều
chỉnh chúng. Đòi hỏi đối với các hợp đồng này phải chặt chẽ hơn là phù hợp.
Tóm
lại, để có thể xem xét một hành vi có phải là sự lừa dối trong giao kết hợp
đồng hay không người ta căn cứ vào các yếu tố sau đây: Một là, phải có sự cố ý
đưa thông tin sai lệch hoặc bỏ qua sự thật của một bên, Hai là, người nghe phải
không biết đến sự sai lệch đó. Ba là, người nghe đã tin vào sự sai lệch do một
bên đưa ra mà giao kết hợp đồng. Và bốn là, phải có thiệt hại xảy ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét