Giao
dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu
a. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu
Chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Một
giao dịch hợp pháp phải tuân thủ ba điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
(trong một số trường hợp cụ thể phải tuân thủ thêm điều kiện về hình thức). Vì
vậy, về nguyên tắc giao dịch không tuân thủ một trong các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch thì sẽ bị vô hiệu. Những quy định về sự vô hiệu của giao dịch dân
sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỉ cương xã hội; bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và Nhà nước; bảo đảm an toàn
pháp lí cho các chủ thể trong giao lưu dân sự.
b. Các loại giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự
vô hiệu
Theo cách phân loại truyền thống thì
các trường hợp giao dịch bị vô hiệu có thể được phân thành hai nhóm chính: Vô
hiệu tuyết đối (hay còn gọi là vô hiệu đương nhiên) và vô hiệu tương đối (hay còn
gọi là vô hiệu bị tuyên).
Sự phân loại nêu trên dựa vào một số đặc điểm
khác biệt chung thể hiện bản chất của hai khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu
tuyệt đối và vô hiệu tương đối. Đó là:
Thứ nhất là sự khác biệt về trình tự vô hiệu của giao dịch.
Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối thì mặc nhiên bị coi là vô hiệu. Còn đối với
các giao dịch vô hiệu tương đối thì không mặc nhiên vô hiệu mà chỉ trở nên vô
hiệu khi có đơn yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan và bị toà án
tuyên bố vô hiệu.
Thứ hai là sự khác biệt về thời hạn yêu cầu
tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối thì
thời hạn yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu không bị hạn chế. Còn đối với
các giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu toà án
tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được
xác lập (Điều 136 BLDS). Có một điểm cần lưu ý là trường hợp vô hiệu do vi phạm
các quy định bắt buộc về hình thức cũng thuộc nhóm vô hiệu tuyệt đối nhưng theo
quy định của Điều 136 BLDS thì thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu là
hai năm kể từ ngày giao dịch được xác lập (giống như các trường hợp vô hiệu
tương đối, bởi vì, hiệu lực của giao dịch phụ thuộc vào ý chí của chủ thể mà
không phải là của Nhà nước).
Thứ ba, giao dịch dân sự thuộc trường hợp vô hiệu
tuyệt đối có thể bị vô hiệu không phụ thuộc vào quyết định của toà án mà đương
nhiên không có giá trị, vì giao dịch vi phạm pháp luật nghiêm trọng cho nên Nhà
nước không bảo hộ. Còn đối với giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì quyết định
của toà án là cơ sở làm cho giao dịch trở nên vô hiệu. Quyết định của toà án
mang tính chất phán xử. Toà án tiến hành giải quyết vụ việc khi có đơn yêu cầu
của các bên (hoặc của đại diện hợp pháp của họ). Bên yêu cầu phải có nghĩa vụ
chứng minh trước toà các cơ sở của yêu cầu. Ví
dụ: Nếu một người yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu
vì lí do khi xác lập giao dịch đã bị lừa dối (hoặc đe doạ) thì bên yêu cầu đó
phải có nghĩa vụ chứng minh trước toà sự kiện lừa dối (hoặc đe dọa) mà bên kia
gây ra đối với mình. Nếu như một bên yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu với lí
do xác lập giao dịch trong thời điểm không nhận thức được hành vi của mình thì
toà án buộc bên yêu cầu phải chứng minh được rằng tại thời điểm xác lập giao dịch
đó họ bị rơi vào trạng thái không nhận thức được hành vi của mình. Dựa trên những
minh chứng đó toà án mới cân nhắc để ra quyết định giao dịch có bị coi là vô hiệu
hay không.
Thứ tư là sự khác biệt về mục đích. Các trường hợp
pháp luật quy định giao dịch vô hiệu tuyệt đối nhằm mục đích bảo vệ các lợi ích
công (lợi ích của Nhà nước, của xã hội nói chung). Còn các trường hợp pháp luật
quy định vô hiệu tương đối là nhằm mục đích bảo vệ lợi ích cho chính các chủ thể
tham gia giao dịch.
Một giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tuyệt đối
trong các trường hợp sau: a) Khi vi phạm vào các điều cấm của pháp luật, trái với
đạo đức của xã hội (Điều 128 BLDS); b) Khi giao dịch được xác lập một cách giả
tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người
thứ ba (Điều 129 BLDS); c) Khi hình thức của giao dịch không tuân thủ theo các
quy định bắt buộc của pháp luật (Điều 134 BLDS);
Giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tương đối
trong các trường hợp: a) Khi giao dịch được xác lập bởi người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều
130 BLDS); b) Khi giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn (Điều 131 BLDS); c) Khi
một bên chủ thể tham gia xác lập giao dịch do bị lừa dối, đe doạ (Điều 132 BLDS);
d) Khi người xác lập giao dịch đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao
dịch tại thời điểm không nhận thức được hành vi của mình (Điều 133 BLDS).
* Giao dịch vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp
luật, trái đạo đức xã hội
Điều 128 BLDS quy định giao dịch dân sự vô hiệu
do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội cùng những hậu quả pháp
lí của giao dịch vô hiệu dạng này. Vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức
xã hội bao gồm nội dung, mục đích của giao dịch trái pháp luật và đạo đức xã hội
(xem mục 3). Giao dịch vi phạm quy định này đương nhiên bị coi là vô hiệu không
phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia giao dịch. Tài sản giao dịch và lợi tức
thu được có thể bị tịch thu, sung quỹ nhà nước (ví dụ: Trong trường hợp mua bán thuốc phiện, động vật quý hiếm
thuộc danh mục cấm...). Trong trường hợp có thiệt hại mà các bên đều có lỗi,
thì họ phải chịu phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình. Nếu chỉ một
bên có lỗi thì bên đó phải bồi thường thiệt hại cho bên kia.
* Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm các quy định
bắt buộc về hình thức của giao dịch (Điều 134 BLDS)
Theo nguyên tắc chung thì các chủ thể được tự do
lựa chọn hình thức của giao dịch. Chỉ những giao dịch pháp luật quy định bắt buộc
phải thể hiện bằng văn bản, phải có chứng thực, chứng nhận, đăng kí hoặc xin
phép mà các bên không tuân thủ quy định này mới bị vô hiệu. Khi các bên không
tuân thủ các quy định này và có yêu cầu của một hoặc các bên thì toà án xem xét
và "buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch
trong một thời hạn nhất định". Việc ấn
định thời hạn do toà án quyết định căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể. Việc buộc các
bên phải thực hiện và đưa ra thời hạn thực hiện quy định về hình thức của giao
dịch thuộc thẩm quyền và là nghĩa vụ của toà án. Chỉ khi các bên không thực hiện
và hoàn tất các quy định về hình thức của giao dịch trong thời hạn do toà án
quyết định thì giao dịch mới vô hiệu. Bên có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải
bồi thường thiệt hại.
* Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 129
BLDS)
Trường hợp vô hiệu do giả tạo có điểm đặc biệt
là các bên trong giao dịch đó hoàn toàn tự nguyện xác lập giao dịch nhưng lại cố
ý bày tỏ ý chí không đúng với ý chí đích thực của họ (có sự tự nguyện nhưng
không có sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí).
Có hai trường hợp giả tạo. Trường hợp thứ nhất
là giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác. Khi đó giao dịch giả tạo vô hiệu,
còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực nếu như giao dịch bị che giấu đó đáp ứng
được đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Ví dụ: Giao kết hợp đồng tặng cho tài sản nhằm che giấu hợp đồng
gửi giữ.
Trường hợp thứ hai là giao dịch giả tạo nhằm trốn
tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Ví
dụ: Các bên thoả thuận giao kết hợp đồng tặng cho nhưng
không làm phát sinh quyền của người được tặng cho (hợp đồng tưởng tượng) nhằm
trốn tránh việc trả nợ người cho vay trước đó. Khi đó hợp đồng tặng cho giả tạo
đó sẽ bị vô hiệu.
* Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự xác lập, thực hiện (Điều 130 BLDS năm 2005)
Người không có năng lực hành vi hoặc có năng lực
hành vi không đầy đủ không thể có đủ điều kiện để tự do thể hiện ý chí. Vì vậy,
giao dịch của họ phải được xác lập, thực hiện dưới sự kiểm soát của người khác
hoặc do người khác xác lập, thực hiện. Tuy nhiên, giao dịch do những người này
xác lập không mặc nhiên bị coi là vô hiệu mà chỉ vô hiệu khi có yêu cầu của những
người đại diện cho họ. Người đã xác lập giao dịch với những người này không có
quyền yêu cầu đó. Nếu người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không khởi kiện
yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực pháp
luật.
* Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn (Điều 131
BLDS)
Nhầm lẫn là việc các bên hình dung sai về nội
dung của giao dịch mà tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc cho
bên kia. Sự nhầm lẫn xuất phát từ nhận thức của các bên hoặc phán đoán sai lầm
về đối tượng sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào nội
dung của giao dịch phải xác định được. Nếu bên bị nhầm lẫn chứng minh được sự
nhầm lẫn của mình thì giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu.
Trong nhiều trường hợp, sự nhầm lẫn có thể xảy đến
do lỗi của bên đối tác. Khi một bên có lỗi làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung
của giao dịch mà xác lập giao dịch (ví dụ: Không đưa ra chỉ dẫn rõ ràng bằng tiếng Việt về công dụng
của tài sản...) thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung
của giao dịch đó. Nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu
cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu (Điều 131 BLDS năm 2005). Tuy nhiên, lỗi ở
đây chỉ có thể là lỗi vô ý. Nếu sự nhầm lẫn do lỗi cố ý của bên đối tác thì khi
đó sẽ thuộc trường hợp vô hiệu do lừa dối.
Xung quanh vấn đề lỗi của các bên trong trường hợp
giao dịch xác lập do nhầm lẫn, trong lí luận có tồn tại hai cách giải quyết đối
ngược nhau. Cách thứ nhất cho rằng giao dịch có thể bị tuyên bô vô hiệu do nhầm
lẫn bất kể do lỗi của bên nào gây ra (Điều 141 BLDS năm 1995). Nếu bên nào có lỗi
sẽ phải bồi thường thiệt hại cho bên kia. Cách thứ hai cho rằng giao dịch chỉ bị
tuyên bố vô hiệu nếu như sự nhầm lẫn xảy ra do lỗi vô ý của bên đối tác (Điều
131 BLDS năm 2005). Còn nếu như chính bên bị nhầm lẫn có lỗi thì giao dịch
không bị vô hiệu, bên nhầm lẫn phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Theo cách giải
quyết thứ nhất là hợp lí hơn, bởi lẽ chỉ cần có sự nhầm lẫn xảy ra là giao dịch
đã không đáp ứng được yêu cầu về sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, do vậy
giao dịch đã có thể bị tuyên bố vô hiệu. Còn việc xác định lỗi thuộc về ai là
chỉ nhằm giải quyết vấn đề hậu quả phát sinh khi giao dịch vô hiệu (bồi thường
thiệt hại) mà thôi. Vấn đề này có thể áp dụng nguyên tắc chung về các điều kiện
có hiệu lực của giao dịch để giải quyết (điểm c khoản 1 Điều 122 BLDS).
* Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ
(Điều 132 BLDS)
Lừa dối là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho
bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của
giao dịch nên đã xác lập giao địch đó (che giấu hành vi bất hợp pháp để hưởng
thừa kế theo di chúc; dùng thủ đoạn nói là vật tốt để bán với giá đắt...).
Đe dọa là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ
ba làm cho bên kia sợ hãi mà phải xác lập, thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của
cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình. Tuy nhiên sự đe dọa phải nghiêm trọng và có
thực (không thể là đe dọa tưởng tượng). Hành vi đe doạ có thể được thực hiện từ
phía đối tác cũng có thể từ người thứ ba.
Những giao dịch được xác lập do lừa dối, đe dọa
chỉ bị vô hiệu khi có yêu cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa và toà án chấp nhận
yêu cầu đó. Như vậy, những giao dịch được xác lập do các tác động này vẫn có hiệu
lực nếu không có yêu cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa. Khi giao dịch bị tuyên
bố vô hiệu, bên lừa dối, đe doạ phải bồi thường những thiệt hại xảy ra đối với
bên bị lừa dối, bị đe doạ.
* Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập
không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (Điều 133 BLDS)
Trường hợp này chỉ áp dụng cho những người có
năng lực hành vi dân sự. Tại thời điểm giao kết nếu người đó bị rơi vào tình trạng
không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (ví dụ: say rượu...) thì sau đó chính người đó có quyền yêu cầu
toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Việc phân định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại phụ thuộc vào lỗi của các bên tham gia giao dịch.
Tóm lại, các điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự là một thể thống nhất trong mối quan hệ biện chứng. Bởi vậy, xem xét một
giao dịch phải đặt nó trong tổng thể của mối quan hệ biện chứng này. Nếu giao dịch
vô hiệu từng phần mà không ảnh hưởng đến các phần khác thì chỉ phần vô hiệu
không có hiệu lực, các phần còn lại vẫn có hiệu lực thi hành.
Về nguyên tắc chung, giao dịch dân sự vô hiệu
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên từ thời điểm xác lập. Các bên
phải khôi phục lại tình trạng ban đầu (hoàn nguyên) như khi chưa xác lập giao dịch
cho nên, nếu giao dịch chưa được thực hiện thì các bên không được thực hiện
giao dịch đó. Nếu giao dịch đã được thực hiện toàn bộ hay một phần thì các bên
không được tiếp tục thực hiện giao dịch và phải hoàn trả cho nhau những lợi ích
vật chất đã nhận của nhau. Nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn
trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại (Điều 137
BLDS).
Thời hạn tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là
hai năm, kể từ ngày giao dịch được xác lập đối với các giao dịch dân sự được
xác lập do người không đủ năng lực hành vi, do nhầm lẫn, đe dọa, lừa dối, do
không tuân thủ các quy định bắt buộc về hình thức. Những giao dịch vi phạm điều
cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, thời hạn tuyên bố giao dịch vô hiệu
không bị hạn chế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét