A – MỞ ĐẦU
Đất
đai từ xưa tới nay luôn gắn bó với con người không chỉ bởi những giá trị kinh tế
mà còn bởi những giá trị tinh thần lớn lao. Nhờ có chính sách quản lí đất đai
ngày càng tiến bộ thông qua luật đất đai năm 1987, năm 1993 ( sửa đổi, bổ sung
1998, 2001), và 2003 ( sửa đổi, bổ sung 2009 – 2010) mà chất lượng sử dụng đất
ngày càng tốt, đạt hiệu quả cao góp phần đảm bảo an ninh lương thực, phát triển
kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư và bước đầu phát huy nguồn lực của đất đai
trong phát triển đất nước . Tuy nhiên, vấn đề khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
đất đai ở nước ta trong những năm qua luôn là điểm nóng, gây nhiều bức xúc cho
nhân dân mà một trong những điển hình là tình huống khiếu nại được đưa ra trong
đề 8 đã cụ thể hóa thực trạng quản lí đất đai ở nước ta hiện nay.
B - NỘI DUNG
I.
Giải quyết tình huống
1. Tóm tắt tình huống
Năm 1985, ông D được chính quyền
xã giao diện tích đất là 1700m2 để sử dụng, đến năm 1995 ông D được Ủy
ban nhân dân huyện X cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất
trên, trong quá trình sử dụng ông D thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước.
Mảnh đất này có nguồn gốc là cha mẹ bà N khai phá trước giải phóng, do chiến
tranh gia đình bà N lưu lạc đi nơi khác, sau giải phóng bà N về xin tiếp tục
canh tác và được Ủy ban nhân dân xã đồng ý, bà N sử dngj đến năm 1983 hì chuyển
đi nơi khác. Tháng 9 – 2006, bà N quay về đòi lại mảnh đất ông D đang sử dụng. Ủy
ban nhân dân xã quyết định buộc ông D phải trả lại diện tích đất trên cho bà N,
ông D không đồng ý. Bà N khởi kiện ra tòa án nhân dân.
2. Quyết định của Ủy ban nhân dân xã là
đúng hay sai? Tại sao?
Với các thông tin trên, quyết định
của Ủy ban nhân dân xã là sai vì:
Căn
cứ vào các quy định của pháp luật, cụ thể: căn cứ vào thẩm quyền giao đất và
thu hồi đất điều 44 ( Luật Đất đai 2003), và điều 31 ( Nghị định của Chính phủ
181/2004/NĐ – CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 về thi hành Luật Đất đai) về thẩm
quyền giao
đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất thì UBND xã không có thẩm quyền thu hồi
đất của ông D. UBND xã chỉ có quyền đề nghị UBND huyện ra quyết định thu hồi đất. UBND xã có
quyền kiến nghị với cấp có thẩm quyền thu hồi đất trong các trường hợp quy định tại
điều 38 ( Luật Đất đai 2003). Nếu chưa có quyết định thu hồi đất của UBND huyện, UBND
xã ra quyết định thu hồi đất của ông D là vi phạm thẩm quyền thu hồi đất quy định
tại điều 44 ( Luật Đất đai 2003) vì theo điều luật này:
1.Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, trừ trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều này.
2. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu
hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở
tại Việt Nam.
Do đó, trong trường hợp này UBND cấp xã
không có thẩm quyền thu hồi đất của ông D.
Như vậy, căn cứ vào thẩm quyền thu hồi đất
thì quyết định của UBND xã là sai, trái với quy định của pháp luật đất đai
2003.
3. Với tư cách là một thẩm phán chịu trách
nhiệm giải quyết vụ việc trên anh chị sẽ xử lí như thế nào?
Hội đồng xét xử xét thấy:
Mảnh đất rộng 1700m2
có nguồn gốc do cha mẹ bà N khai phá trước giải phóng để lại cho bà N, do chiến
tranh bà N lưu lạc đến nơi khác. Sau chiến tranh bà quay lại xin được cấp lại
và sử dụng đến năm 1983 thì chuyển đi nơi khác, đến tháng 9 – 2006 bà N quay lại
đòi mảnh đất trên.
Ông D, năm 1985 được chính quyền
xã giao mảnh đất trên, năm 1995 được UBND huyện X cấp GCNQSDĐ và ông đã thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước. Ông D không đồng ý trả lại đất.
Căn cứ vào khoản 2, điều 4, Nghị định của Chính phủ 181/2004/NĐ – CP quy định:
việc giải quyết các trường hơp khiếu nại, tranh chấp về đất đai phải căn cứ vào
pháp luật về đất đai tại thời điểm xảy ra các quan hệ đất đai dẫn đến khiếu nại,
tranh chấp.
Theo thông tin cung cấp, bà N sử
dụng diện tích đất trên vào mục đích canh tác, qua đó căn cứ vào khoản 1 ( mục
II ) về phân loại đất thì diện tích đất trên được xác định là đất nông nghiệp : “Đất nông nghiệp là đất được xác định dùng cho các lĩnh vực hoạt động của
sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi hoặc nghiên cứu, thí nghiệm về
trồng trọt hoặc chăn nuôi”[1].
Căn cứ vào các quy định của
pháp luật xét thấy:
Thứ
nhất, căn cứ vào các trường hợp thu hồi đất tại điểm b khoản 3 ( mục V - Quyết
định số 201/CP ngày 01 tháng 7 năm 1980 của Hội đồng chính phủ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thống nhất quản lí ruộng đất và tăng cường công
tác quản lí ruộng đất trong cả nước) đất bị thu hồi trong trường hợp: “ Nếu
người sử dụng đất vi phạm các quy định ở phần III trên đây”, cụ thể: “ Nếu đất không sử dụng hoặc không sử dụng hết đất thì người sử dụng đất
phải trả lại phần đất không sử dụng cho Nhà nước. Đối với đất trước kia thuộc sở
hữu cá thể hợp pháp, khi người chủ đất không sử dụng nữa (hoặc không có người
thừa kế hợp pháp sử dụng) thì Ủy ban nhân dân huyện quyết định việc sử dụng
theo đề nghị của Ủy ban nhân dân xã” ( điểm c, khoản 2, mục III ). Qua đó thấy được bà N đã không sử dụng đất, bà N đã bỏ đi
trong chiến tranh, sau giải phóng bà N lại quay về xin lại đất canh tác và sử dụng
đến năm 1983 rồi bỏ đi đến tháng 9 – 2006. Trong khoảng thời gian từ 1983 đến
1985 diện tích đất đó không được đưa vào sử dụng, do đó việc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền thu hồi và giao cho người khác sử dụng là đúng quy định của pháp
luật.
Thứ hai, theo điểm c, khoản 3 ( mục III) quy định người sử dụng đất: “ Phải nộp thuế, giao nộp hoặc bán sản phẩm
cho Nhà nước theo chế độ Nhà nước quy định”[2].
Trong khoảng thời gian bỏ đi nơi khác, bà N không thực hiện nghĩa vụ đối
với nhà nước: nộp thuế..., như vậy bà N đã vi phạm quy định về nghĩa vụ của người
sử dụng đất, do đó mảnh đất trên bị thu hồi là đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, căn cứ vào khoản
2, điều 10 ( Luật Đất đai 2003) và khoản 1, điều 4 ( Nghị định của Chính phủ 181/2004/NĐ – CP )
quy định những bảo đảm cho người sử dụng đất:
“Nhà nước không thừa
nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử
dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Bởi vậy, năm 1983 bà N bỏ đi, đất trước đây
gia đình bà N sử dụng nay đã được giao cho ông D sử dụng ( từ năm 1985) thì nay
không được đòi lại đất đó. UBND xã không có thẩm quyền thu hồi đất của ông D để
trả cho bà N.
Về phía ông D, năm 1985 ông được
chính quyền xã giao đất để sử dụng theo quy định tại điểm a, khoản 2 ( mục V ):
“Việc giao đất nông nghiệp, đất thổ cư
nông thôn và đô thị trên 2 hécta hoặc phải di dân trên 20 hộ để lấy đất làm việc
khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định; từ 2 hécta trở xuống hoặc phải di dân từ
20 hộ trở xuống do chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương quyết định”[3]. Theo
đó, thẩm quyền giao đất cho ông D sử dụng lúc bấy giờ phải là UBND tỉnh, thành
phố thực hiện, chứ chính quyền xã không có thẩm quyền giao đất. Do đó, việc
chính quyền xã giao đất cho ông D là trái với quy định của pháp luật, không
đúng thẩm quyền giao đất.
Tuy nhiên, năm 1995
ông D được UBND huyện X cấp GCNQSDĐ mặc dù diện tích đất trên được giao không
đúng thẩm quyền nhưng theo quy định tại điểm a, khoản
2 ( mục II ) quy định: Xử lý diện tích đất giao không đúng thẩm quyền để xét cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: “ Đất đã
giao không vi phạm vào quy hoạch hiện nay và không phải đất đang có tranh chấp
thì người đang sử dụng đất được hợp thức hoá quyền sử dụng đất. Diện tích đất
được xem xét hợp thức hoá phù hợp với luận chứng kinh tế kỹ thuật đã được
duyệt, nếu là đất làm nhà ở của hộ gia đình thì bằng mức đất ở theo quy định
hiện nay của địa phương. Cơ quan có thẩm quyền hợp thức hoá xem xét để quyết
định việc xử phạt hành chính về hành vi sử dụng đất trái phép đối với người
được hợp thức hoá quyền sử dụng đất cho phù hợp với tình hình thực tế của từng
trường hợp cá thể. Người được hợp thức hoá quyền sử dụng đất phải làm thủ tục
hợp thức hoá quyền sử dụng đất, nộp lệ phí địa chính, nộp phạt hành chính theo
quy định của cơ quan có thẩm quyền cho phép hợp thức hoá quyền sử dụng đất.
Trường hợp diện tích sử
dụng vượt so với LCKTKT hoặc mức đất ở theo quy định thì phải nộp tiền sử dụng
đất phần diện tích vượt hoặc thu hồi phần diện tích vượt đó”[4].
Ông D sử dụng đất từ năm 1985 không có tranh chấp và ông
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước. Vì vậy, ông D được cấp
GCNQSDĐ là đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, việc cấp GCNQSDĐ cho ông D đã xác
lập quyền sử dụng đất hợp pháp của ông D đối với nhà nước. Đó chính là một đảm
bảo quan trọng của Nhà nước đối với người sử dụng đất, là cơ sở pháp lí để phân
định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp đất đai.
Về phía bà N, mặc
dù theo đơn khởi kiện có ghi: Mảnh
đất này có nguồn gốc là cha mẹ bà N khai phá trước giải phóng, do chiến tranh
gia đình bà N lưu lạc đi nơi khác, sau giải phóng bà N về xin tiếp tục canh tác
và được Ủy ban nhân dân xã đồng ý đến 1983 thì bà chuyển đi nơi khác. Nhưng
trên thực tế bà lại không có giấy tờ chứng minh đó là mảnh đất của cha mẹ bà để
lại cho bà N. Mặt khác, năm 1983 bà N chuyển đi nơi khác không sử dụng, không
kê khai, không thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước. Từ những căn cứ
trên có thể thấy, bà N không có nhu cầu sử dụng đất.
Trong trường hợp tranh chấp mà
nguyên đơn - bà N là người không thực tế sử dụng đất, không đăng kí, thì Tòa án
bác yêu cầu đòi lại đất của nguyên đơn đồng thời bảo vệ quyền lợi cho bị đơn là
người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Điều đó cho thấy việc không
thực hiện kê khai quyền sử dụng đất của mình, đã chứng tỏ bà N không có nhu cầu
sử dụng đất và đương nhiên từ bỏ quyền sử dụng đất của mình.
Vì các lẽ trên
Căn cứ vào khoản 1 điều 136 (
Luật Đất đai 2003) thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.
Quyết định
- Áp dụng khoản 2, điều 10; khoản 3, điều 37; khoản 11 điều 38; điều 44; khoản 3, điều 107 Luật Đất đai.
- Áp dụng Nghị định của Chính phủ 181/2004/NĐ – CP ngày 29 tháng 10
năm 2004 về thi hành Luật Đất đai.
- Căn
cứ Quyết định số 201/CP ngày 01 tháng 7 năm 1980 của Hội đồng chính phủ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thống nhất quản lí ruộng đất và tăng cường
công tác quản lí ruộng đất trong cả nước.
- Căn cứ Công
văn của tổng cục địa chính số 1427/CV/ ĐC
ngày 13 tháng 10 năm 1995 về việc hướng dẫn một số vấn đề về đất đai để
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Xử:
Bác yêu cầu đòi lại
đất của bà N
Công nhận diện tích
đất trên thuộc quyền sử dụng của ông D
Về phía bà N, nếu bà N có nhu cầu
sử dụng đất phục vụ cho cuộc sống của gia đình mình thì UBND xã có thể hướng dẫn
bà N làm hồ sơ xin được giao đất có thu tiền sử dụng đất làm nhà ở, sau đó
trình UBND cấp huyện để được xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
II.
Thực trạng và giải pháp giải quyết khiếu nai, tố cáo trong lĩnh vực đất đai ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay
1.Thực trạng
Tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp
của công dân trong lĩnh vực đất đai diễn ra gay gắt, phức tạp ở hầu hết các địa
phương trong cả nước ( chiếm hơn 80% các vụ khiếu nại, tố cáo trong cả nước
trong đó có hơn 50% là khiếu nại, tố cáo đúng ). Nhiều nơi đã trở thành điểm
nóng trong lĩnh vực đất đai như: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải
Phòng, Hà Tây,... Tình hình đơn thư tranh
chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của công dân gửi đến Bộ Tài nguyên và Môi
trường từ năm 2003 đến năm 2008: Tổng số đơn Bộ nhận được từ năm
2003-2008 là “ 47.652 lượt (bình quân gần 8.000 lượt/năm và riêng năm 2008 là
7.005), đơn thư Bộ nhận được có ở cả 63 tỉnh, thành phố. Trong
6 tháng đầu năm 2009, các đơn vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường đã nhận
được tổng số đơn khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực đất đai là: 3.470 lượt đơn” [5]....Qua con số thống kê trên cho thấy tình hình quản
lí đất đai của nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, trình độ hiểu biết về pháp luật đất
đai của người dân chưa cao dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo ảnh hưởng đến
việc ổn định CT – XH cũng như đời sống của nhân dân.
2. Giải pháp
- Tăng cường bồi dưỡng cho cán
bộ, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ ngành địa chính, nhất là
địa chính xã, phường để làm tốt chức năng quản lí đất đai ở địa phương, tham
mưu cho UBND các cấp trong công tác thanh tra, kiểm tra về đất đai.
- Tăng cường ổn định và hoàn
thiện tổ chức ngành địa chính từ cấp xã đến cấp tỉnh cho đủ các chức danh và
qua đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở địa phương trong giai đoạn
mới.
- Tăng cường công tác quản lí
Nhà nước về đất đai như tiến hành kiểm kê đất đai, đăng kí đất đai, đo vẽ, lập
hồ sơ địa chính,...Tăng cường hơn nữa việc thanh tra đất đai kịp thời phát hiện
những sai phạm và xử lí những sai phạm trong quá trình xử lí và sử dụng đất
đai. Như vậy, sẽ hạn chế tranh chấp đất đai góp phần vào việc ổn định xã hội,
phát triển kinh tế ở địa phương.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền
chính sách pháp luật về đất đai, luật khiếu nại, tố cáo cho nhân dân...kết hợp
tuyên truyền bằng nhiều hình thức, nhằm giáo dục sâu rộng trong nhân dân, đặc
biệt là cơ sở , làm cho nhân dân hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình trong quá
trình sử dụng đất cũng như khi tham gia khiếu nại, tố cáo.
C – KẾT LUẬN
Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
đất đai vẫn đang là vấn đề bức xúc và trở thành điểm nóng trong đời sống xã hội
hiện nay. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, các tranh chấp về quyền sử dụng đất
một cách triệt để, kịp thời là mục tiêu quan trọng của các cấp chính quyền và
TAND trong giai đoạn hiện nay. Đây là một vấn đề nhạy cảm, đụng chạm tới nhiều
vấn đề do đó đòi hỏi phải được giải quyết triệt để vừa hợp lòng dân vừa đúng
quy định của pháp luật. Qua đó, góp phần ổn định chính trị, xã hội làm cho đất
nước ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện.
[1]
Quyết định số 201/CP ngày
01 tháng 7 năm 1980 của Hội đồng chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về việc thống nhất quản lí ruộng đất và tăng cường công tác quản lí ruộng đất
trong cả nước.
[2],
Quyết định số 201/CP ngày
01 tháng 7 năm 1980 của Hội đồng chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về việc thống nhất quản lí ruộng đất và tăng cường công tác quản lí ruộng đất
trong cả nước.
[3] Quyết định số 201/CP ngày 01
tháng 7 năm 1980 của Hội đồng chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
về việc thống nhất quản lí ruộng đất và tăng cường công tác quản lí ruộng đất
trong cả nước.
[4] Công văn của tổng cục địa chính số 1427/CV/
ĐC ngày 13 tháng 10 năm 1995 về việc
hướng dẫn một số vấn đề về đất đai để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét