A - MỞ ĐẦU
Xử
phạt VPHC là một trong những biện pháp chế tài của nhà nước được áp dụng cho
các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính nhằm thiết lập lại trật tự
quản lí trong lĩnh vực hành chính nhà nước. Hiện nay cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng có nhiều hành vi VPHC diễn ra
với mức độ ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp. Từ thực tế đó đòi hỏi phải
có những biện pháp chế tài thật hợp lí, nghiêm minh góp phần quản lí, hạn chế
các hành vi VPHC. Chính vì lí do đó em đã chọn đề bài: Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và thủ tục phạt vi phạm hành chính
B – NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lí luận về thẩm
quyền xử lí VPHC và thủ tục xử phạt VPHC
1. Khái niệm VPHC
VPHC
là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do cá nhân, do cá nhân có năng lực trách nhiệm
hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm hại trật tự xã hội, trật tự nhà nước, sở
hữu tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, mà không phải là tội phạm
và phải bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.
2. Xử phạt VPHC
Xử
phạt hành chính là một biện pháp cưỡng chế hành chính do chủ thể có thẩm quyền
áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức VPHC, theo trình tự, thủ tục xử phạt hành
chính do pháp luật hành chính Việt Nam quy định.
3. Thẩm quyền xử phạt hành chính
Thẩm
quyền xử phạt hành chính là quyền và nghĩa vụ phạt hành chính của cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền tiến hành xử phạt hành chính theo thủ tục xử phạt và
trong phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật.
II.Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính và thủ tục xử phạt hành chính
Thẩm
quyền xử phạt VPHC và thủ tục xử phạt hành chính được quy định trong Pháp lệnh
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 44/2002/ PL-UBTVQH 10 ngày 2 tháng 7 năm 2002
về việ xử lí VPHC ( đã được sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008 ).
1. Tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền xử phạt VPHC
Thẩm
quyền xử phạt VPHC được quy định từ điều 28 đến điều 42 Pháp lệnh xử lí VPHC
năm 2002 ( sửa đổi, bổ sung 2007, 2008 ). Tính hợp lí của các quy định về thẩm
quyền xử phạt VPHC được thể hiện:
a.
Quy
định về người có thẩm quyền xử phạt VPHC
Những người có thẩm quyền xử phạt VPHC được quy định từ điều 28 đến điều
40d trong Pháp lệnh XLVPHC. Trong đó, quy định người có thẩm quyền XPVPHC là
những người giữ chức danh lãnh đạo, quản lí trong cơ quan nhà nướcnhư: Chủ tịch Ủy ban
nhân dân (UBND) các cấp, Trưởng Công an cấp xã, Trưởng Công an cấp huyện, Giám
đốc Công an cấp tỉnh, Trưởng Đồn biên phòng, Chi cục trưởng Hải quan, Chi cục
trưởng Chi cục thuế, Chánh Thanh tra chuyên ngành cấp sở, Chánh án Toà án nhân
dân các cấp…Ngoài ra, một số người không giữ chức danh lãnh đạo trong cơ quan quản
lí nhà nước cũng có thẩm quyền XPVPHC trong khi thi hành công vụ như: chiens sĩ
Cảnh sát giao thông, chiến sĩ bộ đội biên phòng,…Tính hợp lí của quy định này
được thể hiện ở chỗ: Pháp lệnh đã quy định rõ những người có thẩm quyền XPVPHC
là những người giữ chức danh lãnh đạo trong các cơ quan quản lí nhà nước bởi
đây là những người có chuyên môn, có trình độ cao trong quản lí nhà nước. Việc
quy định này thể hiện rõ sự coi trọng, đánh giá cao chuyên môn, năng lực của họ
trong việc áp dụng các hình thức XPVPHC trong từng trường hợp nhất định. Đây
đều là những người có nhiều kinh nghiệm, có năng lực trong việc XLVPHC qua đó
áp dụng các hình thức xử phạt một cách dễ dàng, tránh sự mâu thuẫn, khó khăn
trong quá trình giải quyết cũng như việc giải quyết không triệt để, không áp
dụng đúng hay triệt để các hình thức xử phạt đối với chủ thể VPHC. Qua đó, tạo
ra sự tôn trọng pháp luật của các chủ thể VPHC bởi hình thức XPVPHC mang tính
chất răn đe, giáo dục nhiều hơn tính trừng trị.
+ Đồng thời, Pháp lệnh
XLVPHC sửa đổi, bổ sung 2008 đã bổ sung một số chức danh có thẩm quyền xử phạt,
đồng thời quy định các chức danh có thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt
chính, áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả do
hành vi VPHC gây ra của một số chức danh thuộc các cơ quan quản lý nhà nước
chuyên ngành, theo hướng tăng thẩm quyền xử phạt tiền. Việc quy định như
vậy góp phần giảm bớt tình trạng dồn việc, tồn việc lên cấp có thẩm quyền cao
hơn giải quyết, góp phần cải cách thủ tục hành chính, làm cho thủ tục ngày càng
tinh gọn. Đồng thời, qua đó cũng tạo điều kiện cho người vi phạm trong việc nộp
phạt một cách dễ dàng, nhanh gọn, không mất nhiều thời gian,…
Tuy nhiên, bên cạnh
những điểm hợp lí quy định này còn tồn tại khá nhiều điểm bất cập, cụ thể:
- Thứ nhất: việc Pháp
lệnh liệt kê một cách cố định những người có thẩm quyền XPVPHC như vậy đã làm
giảm tính ổn định của chế định pháp luật về thẩm quyền XPVPHC. Với việc liệt kê
như vậy mang tính khuôn mẫu, bắt buộc trong trường hợp này là người này xử lí.Nhưng
trong một số trường hợp không liệt kê hết người có thẩm quyền XPVPHC trong các
trường hợp khác thì vấn đề đặt ra là ai sẽ đứng ra giải quyết. Chẳng hạn: người
chỉ huy tàu bay, tàu biển, tàu hoả không có thẩm quyền xử phạt đối với những
VPHC được thực hiện trên tàu bay, tàu biển, tàu hoả khi các tàu này đã rời sân
bay, bến cảng, ga,…Như vậy, trong trường hợp này thì ai là người đứng ra giải
quyết, quyết định áp dụng các hình thức XPVPHC đối với họ.
- Thứ hai, “việc Pháp
lệnh quy định một số người không giữ chức danh lãnh đạo, quản lý trong cơ quan
nhà nước chỉ có thẩm quyền XPVPHC trong khi thi hành công vụ là
không cần thiết”[1].
Với việc quy định như vậy tạo ra sự bất tiện trong việc thi hành công vụ bởi
trên thực tế các hoạt động XPVPHC đều là hoạt động công vụ. Chính việc quy định
như vậy đã buộc trong quá trình tiến hành các hoạt động này, những người tiến
hành XPVPHC đều phải có những dấu hiệu riêng để nhận biết là đang thi hành công
vụ: phải có thẻ, trang phục,…theo quy định của pháp luật.
- Thứ ba, Pháp lệnh quy
định những người là cấp trưởng trong cơ quan nhà nước có thể ủy quyền bằng văn
bản cho cấp phó thực hiện XPVPHC là không hợp lí vì:
+ Thứ nhất, những người
giữ chức danh cấp trưởng đều không có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp
luật. Do đó, “ họ chỉ có thể uỷ quyền XPVPHC bằng văn bản áp dụng pháp luật cho cấp
phó đối với từng vụ VPHC cụ thể”[2].Như đã biết, nếu cấp
trưởng có thời gian ra văn bản ủy quyền thì tất họ phải có thời gian ra quyết
định XPPHC. Có thể nói, việc ủy quyền đó chỉ là một cách để kéo dài thời gian
xử phạt chứ không góp phần giải quyết nhanh gọn các hành vi VPHC trong thực
tiễn.
+ Thứ hai, do bộ máy nhà
nước được tổ chức chưa hoàn thiện, nên một số cơ quan không có chức danh cấp
trưởng nắm giữ, những người giữ chức danh cấp phó không có thẩm quyền XPVPHC
trong một số trường hợp. Như vậy, câu hỏi đặt ra là trong trường hợp này những
hành vi VPHC đó được xử lí như thế nào?
b.
Xác định thẩm quyền ra
quyết định XPVPHC
Các căn cứ để xác định thẩm quyền ra
quyết định XPVPHC chủ yếu được quy định tại Điều 42 của Pháp lệnh. Quy định này
có những điểm hợp lí là:
-
Một là, Căn cứ vào địa điểm VPHC thì “ Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp có thẩm
quyền xử phạt VPHC trong các lĩnh vực quản lí nhà nước ở địa phương” ( khoản 1,
điều 42, Pháp lệnh XLVPHC 2002, sửa đổi, bổ sung 2007, 2008 ). Theo quy định
này thì chủ tịch UBND các cấp ở địa phương nào thì có thẩm quyền xử phạt các
trường hợp vi phạm ngay trên địa phương mình. Điều đó, tạo điều kiện cho việc
dễ nắm bắt tình hình, cũng như lai lịch của người vi phạm góp phần tránh việc
khai báo giả, không đúng sự thật khó khăn trong việc điều tra, giải quyết vụ
việc. Đây là một trong những quy định góp phần rút ngắn thời gian tiến hành
điều tra, thu thập chứng cứ vi phạm đố với các tô chức có hành vi vi phạm trên
quy mô lớn.
Tuy nhiên, quy định này vẫn còn tồn tại nhiều
hạn chế: Pháp lệnh mới chỉ dừng lai ở việc quy định xử phạt tại địa phương và
vấn đề đặt ra là trên thực tế còn có trường hợp vi phạm: hiện ở nhiều địa
phương khác nhau hay được thực hiện ở ngoài lãnh thổ Việt Nam thì ai là người
có thẩm quyềnra
quyết định xử phạt.Đây chính là câu hỏi, cũng như khoảng trống mà pháp luật
nước ta chưa đề cập đến gây ra nhiều khó khăn trong việc giải quyết vụ việc.
- Hai là, Căn cứ vào lĩnh vực thực hiện vi phạm hành
chính:
Người có thẩm quyền
XPVPHC quy định tại các điều từ điều 31 đến diều 40 của Pháp lệnh này có thẩm
quyền XPVPHC thuộc lĩnh vực, ngành mình quản lí.
Trong trường hợp VPHC
thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người, thì việc xử phạt do người thụ lí đầu
tiên thực hiện.
Việc quy định như vậy là hợp lí, bởi lẽ, mỗi một người đang hoạt động
trong ngành, lĩnh vực của mình thì tất họ là những người hiểu biết nhiều nhất
về các trường hợp, cũng như những cấu thành nên hành vi VPHC đó. Từ đó, tạo
điều kiện thuận lợi cho người có thẩm quyền XPVPHC căn cứ vào các biểu hiện,
cấu thành VPHC mà ra quyết định xử phạt một cách chính xác, công minh nhất.
Tuy nhiên, Pháp lệnh lại không có
quy định để giải thích như thế nào là người thụ lý đầu tiên. Chính
điều đó đã không tạo ra sự minh bạch, rõ ràng từ khâu tiếp nhận đến khâu giải
quyết xong hành vi VPHC.
- Ba là, Căn cứ vào thẩm quyền áp dụng các
hình thức xử phạt và biện pháp cưỡng chế: “Thẩm quyền xử phạt của
những người được quy định tại các điều từ Điều 28 đến Điều 40d của Pháp lệnh
này là thẩm quyền áp
dụng đối với một hành vi VPHC. Trong trường hợp phạt tiền, thẩm quyền xử
phạt được xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối với
từng hành vi vi phạm cụ thể” ( khoản 2, điều 42 ).Quy định này được hiểu là:
VPHC cần phải áp dụng hình thức phạt tiền thì chỉ những người có thẩm quyềnphạt
tiền đến mức tối đa của khung tiền phạt được quy định đối với VPHC đó mới được
ra quyết định xử phạt. Với quy định này góp phần hạn chế những người không có
thẩm quyền xử phạt nhưng lạm quyền để ra quyết định xử phạt. Đồng thời, quy
định này có ý nghĩa trong việc giới hạn phạm vi những VPHC mà người có thẩm
quyền có thể ra quyết định xử phạt.
Tuy nhiên, những điểm bất cập cần được khắc phục
ở quy định này vẫn còn tồn tại, cụ thể:
- Bốn là, Căn cứ vào trường hợp vi phạm hành chính( khoản 3, điều 42 ).Tại khoản 3 Pháp lệnh quy định hình thức, mức xử
phạt được quy định đối với từng hành vi VPHC, lĩnh vực và địa điểm thực hiện
của từng hành vi. Việc quy định như vậy là khá thích hợp, khá chặt chẽ, cụ thể:
đối với một hành vi vi phạm mà vượt quá thẩm quyền thì hành vi đó phải được
chuyển lên cấp có thẩm quyền cao hơn để giải quyết chứ người không có thẩm
quyền không được tùy tiện giải quyết. Đây là quy định rất hợp lí, tạo ra sự
tuân thủ trình tự, quy định của pháp luật ngay là khâu tiếp nhận đến khi giải
quyết hoàn chỉnh vụ việc vi phạm.
Tuy nhiên, hạn chế của quy định này là:
+ “Pháp lệnh không quy định khi xử phạt nhiều người cùng thực hiện một hành vi VPHC, thì người
có thẩm quyền ra
mấy quyết định và các căn cứ để xác định thẩm quyền ra quyết định
xử phạt”[3].
+ Trong Pháp lệnh không đề cập đến các dấu hiệu cơ bản để xác định
hành vi VPHC trong trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi VPHC.
c. Giải pháp nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về thẩm quyền XPVPHC
- Thẩm quyền xử phạt hành chính cần được phân cấp
mạnh hơn cho cấp cơ sở, kết hợp với cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ để chống
lạm quyền.
- Quy định cho tất cả các chức danh có thẩm quyền xử
phạt hành chính đều có quyềnáp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do vi
phạm hành chính gây ra.
- “Sửa đổi nguyên
tắc về uỷ quyền trong Pháp lệnh XLVPHC hiện hành:Quy định về
uỷ quyền trong Pháp lệnh hiện nay quá cứng nhắc (chỉ được uỷ quyền trong
trường hợp vắng mặt và bằng văn bản)”[4].
2. Tính hợp lí
của pháp luật về thủ tục xử phạt VPHC
Thủ tục xử phạt VPHC
được quy định chủ yếu tại Chương VI Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC)
năm 2002 (Pháp lệnh năm 2002) được sửa đổi, bổ sung năm 2008. Để cụ thể hóa một
số quy định của pháp luật hiện hành, Chính phủ ban hành Nghị định số
128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp
lệnh. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ tục xử phạt bao gồm
các nội dung: đình chỉ hành vi vi phạm; lập biên bản vi phạm (trừ trường hợp xử
phạt theo thủ tục đơn
giản, tức là thủ tục không
phải lập biên bản); ban hành quyết định xử phạt; thi hành quyết định xử phạt;
tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp đối tượng bị xử
phạt không tự nguyện thi hành quyết định xử phạt. Những quy định về thủ tục xử
phạt VPHC của Pháp lệnh XPVPHC thể hiện
rõ hơn sự minh bạch của pháp luật, thể hiện quan điểm của nhà nước về cải cách
thủ tục hành chính.
a. Sự phân chia thủ tục xử phạt thành 2 thủ tục:
thủ tục đơn giản và thủ tục lập biên bản
Việc phân ra thành 2 thủ
tục XPVPHC: thủ tục đơn giản và thủ tục có lập biên bản đáp ứng được yêu cầu
của công tác XPVPHC trong thực tế khi vấn đề xử lí vi phạm được đặt ra phải
nhanh chóng, công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền,…Việc quy định hai thủ tục
xử phạt VPHC tạo nên sự linh hoạt trong hoạt động xử phạt, vừa nhanh chóng, vừa
chính xác trong khả năng và điều kiện cho phép thực hiện.
+ Thủ tục đơn giản: thủ
tục được quy định tại điều 54 Pháp lệnh XLVPHC 2002 ( sửa đổi, bổ sung 2007,
2008 ) khi phát hiện hành vi vi phạm người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định
xử phạt ngay. Tuy nhiên, điều kiện để áp dụng thủ tục này là hành vi là hành vi
VPHC phải đơn giản, vi phạm nhỏ, rõ ràng, không có tình tiết phức tạp cần phải
xác minh thêm để khi phát hiện hành vi VPHC thì người có thẩm quyền có thể căn
cứ vào tính chất, mức độ vi phạm để ra quyết định xử phạt. Thủ tục đơn giản tạo
điều kiện cho việc xử lí VPHC một cách nhanh gọn, cá nhân, tổ chức bị xử phạt
có thể nộp phạt tại chỗ, vụ việc được giải quyết nhanh chóng, trật tự quản lý
cũng được nhanh chóng khôi phục. Điều đó không chỉ tạo điều kiện cho cơ quan
nhà nước và người thi hành công vụ mà còn cho cả cá nhân, tổ chức vi phạm.
+ Thủ tục có lập biên
bản về VPHC: thủ tục này được quy định tại điều 55 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (
sửa đổi, bổ sung 2008 ). Thủ tục này được áp dụng khi phát hiện hành vi vi phạm
, người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt ngay mà phải lập biên bản
XPVPHC. Với việc thực hiện thủ tục này đảm bảo việc xử phạt có cơ sở, đồng thời
đó cũng là cơ sở để người bị xử phạt khiếu nại, khởi kiện và cơ quan nhà nước
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và xét xử vụ kiện đối với quyết định xử phạt
VPHC.
Tuy nhiên việc áp dụng
hai thủ tục xử phạt này vẫn còn tồn tại những điểm hạn chế: theo quy định của
Pháp lệnh thì có hai hình thức XPVPHC: thủ tục đơn giản và thủ tục có lạp biê
bản, như vậy có nghĩa khi XPVPHC chỉ có thể áp dụng thủ tục đơn giản hoặc thủ tục
có lập biên bản, ngoài ra không còn thủ tục nào khác, như vậy sẽ tạo ra sự
không hợp lí trong một trường hợp như:
+ Hành vi VPHC có mức xử
phạt trên 200 000 đồng nhưng đã xảy ra quá lâu và trên thực tế đã hết thời hiệu
xử phạt thì trong trường hợp này cần phải xử phạt theo thủ tục nào? Bởi trong
thực tế không phải trường hợp VPHC nào cũng được phát hiện ngay mà có trường
hợp hành vi vi phạm đã chấm dứt khá lâu mới bị phát hiện. Trong khi đó, biên
bản là thủ tục được ghi chép ngay sau khi sự việc diễn ra, như vậy trong trường
hợp này việc áp dụng thủ tục lập biên bản là không hợp lí vì có thể có hiện
trường nhưng do thời gian đã không còn.
b. Người có thẩm quyền lập biên bản
Người có thẩm quyền lập
biên bản được quy định tại khoản 1, điều 55 Pháp lệnh XLVPHC 2002 9 sửa đổi, bổ
sung 2008 ) “ Trong trường hợp VPHC không thuộc thẩm quyền xử phạt của người
lập biên bản thì biên bản đó phải được chuyển ngay đến người có thẩm quyền xử
phạt để tiến hành xử phạt” . Như vậy, người lập biên bản phải thỏa mãn đầy đủ
ba điều kiện: “ có thẩm quyền xử phạt, đang thi hành công vụ, hành vi vi phạm
thuộc lĩnh vực vủa người lập biên bản”[5]. Như vậy, qua 3 điều kiện
trên thì người có thẩm quyền lập biên bản được hiều là những người có thẩm
quyền XPVPHC trong một lĩnh vực quản lí
chuyên ngành và những người có thẩm quyền XPVPHC trong mọi lĩnh vực..Quy định
này, tạo điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp, kết hợp giữa các cơ quan có liên quan trong XLVPHC.
Nó đáp ứng được yêu cầu của thực tế bởi: nó cho phép mọi chủ thể đang thi hành
công vụ đều có thẩm quyền lập biên bản xử phạt, điều này là hoàn toàn hợp lí vì
khi công tác XPVPHC muốn được thực hiện có hiệu quả thì thủ tục lập biên bản
phải được thực hiện mọi lúc, mọi nơi dù người lập biên bản có thẩm quyền xử
phạt hay không.
Mặt khác, hạn chế của
quy định này là:
+ Một người thực hiện
nhiều hành vi VPHC trong các lĩnh vực khác nhau thì người có thẩm quyền chỉ ra
một quyết định, trong đó quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi
rồi tổng hợp thành một mức chung. Qua đó, một quyết định xử phạt phải dựa trên
hai biên bản xử lí hành chính làm cho việc xử phạt trở nên phức tạp hóa và
không cần thiết.
+ Người có thẩm quyền xử
phạt phát hiện hành vi vi phạm thuộc lĩnh vực của mình trong thời gian không
thi hành công vụ: việc không quy định cho phép người có thẩm quyền xử phạt khi
không thi hành công vụ không được lập biên bản có thể “ coi là sự lãng phí nhân
lực, làm giảm công tác đấu tranh, phòng chống VPPL”[6] .
c. Thủ tục phạt tiền
Thủ tục phạt tiền được
quy định tại điều 57 của Pháp lệnh, trong đó có quy định: “ tiền phạt có thể
được nộp một lần hoặc nhiều làn trong thời hạn do người có thẩm quyền xử phạt
quyết định”. Đây là một quy định khá hợp lí, phù hợp với thực tiễn nước ta vì:
trên thực tế không phải chủ thể nào vi phạm cũng có điều kiện về tài chính, có
những chủ thể khó khăn do đó việc đặt ra quy định này nhằm giúp đỡ những người
khó khăn về tài chính có thể chấp hành nộp phạt, thực hiện nghĩa vụ của mình
một cách đầy đủ.
d. Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
Điều 66, 67 Pháp lệnh
quy định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt gồm: trách nhiệm của tổ chức tín
dụng trong việc thi hành quyết định cững chế thi hành quyết định XPVPHC và thẩm
quyền ra quyết định cưỡng chế. Với việc quy định tạo điều kiện thực hiện việc
XPVPHC một cách đầy đủ, nhất là đối với các trường hợp không tự nguyện chấp
hành quyết định xử phạt. Đồng thời, đây cũng là một hình thức răn đe những cá
nhân nào có ý định không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình đối với nhà nước.
Tuy nhiên, quy định này vẫn
còn nhiều điểm bất cập, chưa phù hợp với tình hình nước ta hiện nay:
+ Việc cưỡng chế vẫn gặp những khó khăn nhất định, do chưa có
sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các biện
pháp cưỡng chế, như biện pháp khấu trừ tiền từ tài khoản tại ngân hàng. Bởi các
ngân hàng do giữ uy tín, lấy mục đích kinh doanh đặt lên hàng đầu nên không
muốn phối hợp, thực hiện việc cưỡng chế đối với cơ quan có thẩm quyền XPVPHC.
+ Mặt khác, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC là công việc
khó khăn, phức tạp, “ trong khi đó trình tự, thủ tục cưỡng chế
chưa được ban hành cũng là vấn đề gây khó khăn, lúng túng cho cơ quan có thẩm
quyền xử phạt”[7].
+ Khó khăn khác trong
việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế là cơ quan có thẩm quyền xử phạt không
có lực lượng chuyên trách để thi hành các quyết định xử phạt VPHC.
e. Giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật về thủ tục XPVPHC
- Cần quy định cụ thể
việc thi hành quyết định xử phạt đối với thủ tục xử phạt đơn
giản và đối với thủ tục xử phạt có lập biên bản; quy định cụ thể
việc thi hành quyết định xử phạt đối với một số hình thức xử phạt đặc biệt
như thủ tục thi hành hình thức phạt tiền, thủ tục thi
hành hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề, thủ tục thi hành hình thức xử phạt tịch thu tang vật,
phương tiện VPHC…
-
Cần quy định lại việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả của việc XPVPHC.
C
– KẾT LUẬN
[1]Nguyễn Mạnh Hùng, “Hoàn thiện về
pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính”, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, số 206-thang-11-2011 ngày 05/11/2011.
[2]Nguyễn Mạnh Hùng, “Hoàn thiện về
pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính”, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, số 206-thang-11-2011 ngày 05/11/2011.
[3]Nguyễn Thanh Hà, “ Thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính và việc xây dựng Bộ luật xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số
[6]
Bùi Thị Đào, “Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính”, Tạp chí Luật học, số, tr. 20
[7] Trương Khánh Hoàn, Thủ tục xử
phạt vi phạm hành chính trong Dự án Luật Xử lý vi phạm hành chính, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 205-thang-10-2011 ngày 20/10/2011).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét