Thứ Hai, 11 tháng 7, 2016

Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và thủ tục phạt vi phạm hành chính



A - MỞ ĐẦU
Xử phạt VPHC là một trong những biện pháp chế tài của nhà nước được áp dụng cho các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính nhằm thiết lập lại trật tự quản lí trong lĩnh vực hành chính nhà nước. Hiện nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng có nhiều hành vi VPHC diễn ra với mức độ ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp. Từ thực tế đó đòi hỏi phải có những biện pháp chế tài thật hợp lí, nghiêm minh góp phần quản lí, hạn chế các hành vi VPHC. Chính vì lí do đó em đã chọn đề bài: Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và thủ tục phạt vi phạm hành chính
B – NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lí luận về thẩm quyền xử lí VPHC và thủ tục xử phạt VPHC
    1. Khái niệm VPHC
VPHC là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do cá nhân, do cá nhân có năng lực trách nhiệm hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm hại trật tự xã hội, trật tự nhà nước, sở hữu tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, mà không phải là tội phạm và phải bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.
   2. Xử phạt VPHC
Xử phạt hành chính là một biện pháp cưỡng chế hành chính do chủ thể có thẩm quyền áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức VPHC, theo trình tự, thủ tục xử phạt hành chính do pháp luật hành chính Việt Nam quy định.
   3. Thẩm quyền xử phạt hành chính
Thẩm quyền xử phạt hành chính là quyền và nghĩa vụ phạt hành chính của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành xử phạt hành chính theo thủ tục xử phạt và trong phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật.
II.Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và thủ tục xử phạt hành chính
Thẩm quyền xử phạt VPHC và thủ tục xử phạt hành chính được quy định trong Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 44/2002/ PL-UBTVQH 10 ngày 2 tháng 7 năm 2002 về việ xử lí VPHC ( đã được sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008 ).
   1. Tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền xử phạt VPHC
Thẩm quyền xử phạt VPHC được quy định từ điều 28 đến điều 42 Pháp lệnh xử lí VPHC năm 2002 ( sửa đổi, bổ sung 2007, 2008 ). Tính hợp lí của các quy định về thẩm quyền xử phạt VPHC được thể hiện:
a.     Quy định về người có thẩm quyền xử phạt VPHC
Những người có thẩm quyền xử phạt VPHC được quy định từ điều 28 đến điều 40d trong Pháp lệnh XLVPHC. Trong đó, quy định người có thẩm quyền XPVPHC là những người giữ chức danh lãnh đạo, quản lí trong cơ quan nhà nướcnhư: Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp, Trưởng Công an cấp xã, Trưởng Công an cấp huyện, Giám đốc Công an cấp tỉnh, Trưởng Đồn biên phòng, Chi cục trưởng Hải quan, Chi cục trưởng Chi cục thuế, Chánh Thanh tra chuyên ngành cấp sở, Chánh án Toà án nhân dân các cấp…Ngoài ra, một số người không giữ chức danh lãnh đạo trong cơ quan quản lí nhà nước cũng có thẩm quyền XPVPHC trong khi thi hành công vụ như: chiens sĩ Cảnh sát giao thông, chiến sĩ bộ đội biên phòng,…Tính hợp lí của quy định này được thể hiện ở chỗ: Pháp lệnh đã quy định rõ những người có thẩm quyền XPVPHC là những người giữ chức danh lãnh đạo trong các cơ quan quản lí nhà nước bởi đây là những người có chuyên môn, có trình độ cao trong quản lí nhà nước. Việc quy định này thể hiện rõ sự coi trọng, đánh giá cao chuyên môn, năng lực của họ trong việc áp dụng các hình thức XPVPHC trong từng trường hợp nhất định. Đây đều là những người có nhiều kinh nghiệm, có năng lực trong việc XLVPHC qua đó áp dụng các hình thức xử phạt một cách dễ dàng, tránh sự mâu thuẫn, khó khăn trong quá trình giải quyết cũng như việc giải quyết không triệt để, không áp dụng đúng hay triệt để các hình thức xử phạt đối với chủ thể VPHC. Qua đó, tạo ra sự tôn trọng pháp luật của các chủ thể VPHC bởi hình thức XPVPHC mang tính chất răn đe, giáo dục nhiều hơn tính trừng trị.
+ Đồng thời, Pháp lệnh XLVPHC sửa đổi, bổ sung 2008 đã bổ sung một số chức danh có thẩm quyền xử phạt, đồng thời quy định các chức danh có thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt chính, áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả do hành vi VPHC gây ra của một số chức danh thuộc các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, theo hướng tăng thẩm quyền xử phạt tiền. Việc quy định như vậy góp phần giảm bớt tình trạng dồn việc, tồn việc lên cấp có thẩm quyền cao hơn giải quyết, góp phần cải cách thủ tục hành chính, làm cho thủ tục ngày càng tinh gọn. Đồng thời, qua đó cũng tạo điều kiện cho người vi phạm trong việc nộp phạt một cách dễ dàng, nhanh gọn, không mất nhiều thời gian,…
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm hợp lí quy định này còn tồn tại khá nhiều điểm bất cập, cụ thể:
- Thứ nhất: việc Pháp lệnh liệt kê một cách cố định những người có thẩm quyền XPVPHC như vậy đã làm giảm tính ổn định của chế định pháp luật về thẩm quyền XPVPHC. Với việc liệt kê như vậy mang tính khuôn mẫu, bắt buộc trong trường hợp này là người này xử lí.Nhưng trong một số trường hợp không liệt kê hết người có thẩm quyền XPVPHC trong các trường hợp khác thì vấn đề đặt ra là ai sẽ đứng ra giải quyết. Chẳng hạn: người chỉ huy tàu bay, tàu biển, tàu hoả không có thẩm quyền xử phạt đối với những VPHC được thực hiện trên tàu bay, tàu biển, tàu hoả khi các tàu này đã rời sân bay, bến cảng, ga,…Như vậy, trong trường hợp này thì ai là người đứng ra giải quyết, quyết định áp dụng các hình thức XPVPHC đối với họ.
- Thứ hai, “việc Pháp lệnh quy định một số người không giữ chức danh lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước chỉ có thẩm quyền XPVPHC trong khi thi hành công vụ là không cần thiết”[1]. Với việc quy định như vậy tạo ra sự bất tiện trong việc thi hành công vụ bởi trên thực tế các hoạt động XPVPHC đều là hoạt động công vụ. Chính việc quy định như vậy đã buộc trong quá trình tiến hành các hoạt động này, những người tiến hành XPVPHC đều phải có những dấu hiệu riêng để nhận biết là đang thi hành công vụ: phải có thẻ, trang phục,…theo quy định của pháp luật.
- Thứ ba, Pháp lệnh quy định những người là cấp trưởng trong cơ quan nhà nước có thể ủy quyền bằng văn bản cho cấp phó thực hiện XPVPHC là không hợp lí vì:
+ Thứ nhất, những người giữ chức danh cấp trưởng đều không có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, “ họ chỉ có thể uỷ quyền XPVPHC bằng văn bản áp dụng pháp luật cho cấp phó đối với từng vụ VPHC cụ thể”[2].Như đã biết, nếu cấp trưởng có thời gian ra văn bản ủy quyền thì tất họ phải có thời gian ra quyết định XPPHC. Có thể nói, việc ủy quyền đó chỉ là một cách để kéo dài thời gian xử phạt chứ không góp phần giải quyết nhanh gọn các hành vi VPHC trong thực tiễn.
+ Thứ hai, do bộ máy nhà nước được tổ chức chưa hoàn thiện, nên một số cơ quan không có chức danh cấp trưởng nắm giữ, những người giữ chức danh cấp phó không có thẩm quyền XPVPHC trong một số trường hợp. Như vậy, câu hỏi đặt ra là trong trường hợp này những hành vi VPHC đó được xử lí như thế nào?
b.     Xác định thẩm quyền ra quyết định XPVPHC
Các căn cứ để xác định thẩm quyền ra quyết định XPVPHC chủ yếu được quy định tại Điều 42 của Pháp lệnh. Quy định này có những điểm hợp lí là:
          - Một là, Căn cứ vào địa điểm VPHC thì “ Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt VPHC trong các lĩnh vực quản lí nhà nước ở địa phương” ( khoản 1, điều 42, Pháp lệnh XLVPHC 2002, sửa đổi, bổ sung 2007, 2008 ). Theo quy định này thì chủ tịch UBND các cấp ở địa phương nào thì có thẩm quyền xử phạt các trường hợp vi phạm ngay trên địa phương mình. Điều đó, tạo điều kiện cho việc dễ nắm bắt tình hình, cũng như lai lịch của người vi phạm góp phần tránh việc khai báo giả, không đúng sự thật khó khăn trong việc điều tra, giải quyết vụ việc. Đây là một trong những quy định góp phần rút ngắn thời gian tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ vi phạm đố với các tô chức có hành vi vi phạm trên quy mô lớn.
Tuy nhiên, quy định này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế: Pháp lệnh mới chỉ dừng lai ở việc quy định xử phạt tại địa phương và vấn đề đặt ra là trên thực tế còn có trường hợp vi phạm: hiện ở nhiều địa phương khác nhau hay được thực hiện ở ngoài lãnh thổ Việt Nam thì ai là người có thẩm quyềnra quyết định xử phạt.Đây chính là câu hỏi, cũng như khoảng trống mà pháp luật nước ta chưa đề cập đến gây ra nhiều khó khăn trong việc giải quyết vụ việc.
- Hai là, Căn cứ vào lĩnh vực thực hiện vi phạm hành chính:
Người có thẩm quyền XPVPHC quy định tại các điều từ điều 31 đến diều 40 của Pháp lệnh này có thẩm quyền XPVPHC thuộc lĩnh vực, ngành mình quản lí.
Trong trường hợp VPHC thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người, thì việc xử phạt do người thụ lí đầu tiên thực hiện.
Việc quy định như vậy là hợp lí, bởi lẽ, mỗi một người đang hoạt động trong ngành, lĩnh vực của mình thì tất họ là những người hiểu biết nhiều nhất về các trường hợp, cũng như những cấu thành nên hành vi VPHC đó. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho người có thẩm quyền XPVPHC căn cứ vào các biểu hiện, cấu thành VPHC mà ra quyết định xử phạt một cách chính xác, công minh nhất.
Tuy nhiên, Pháp lệnh lại không có quy định để giải thích như thế nào là người thụ lý đầu tiên. Chính điều đó đã không tạo ra sự minh bạch, rõ ràng từ khâu tiếp nhận đến khâu giải quyết xong hành vi VPHC.
- Ba là, Căn cứ vào thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt và biện pháp cưỡng chế: “Thẩm quyền xử phạt của những người được quy định tại các điều từ Điều 28 đến Điều 40d của Pháp lệnh này là thẩm quyền áp dụng đối với một hành vi VPHC. Trong trường hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt được xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối với từng hành vi vi phạm cụ thể” ( khoản 2, điều 42 ).Quy định này được hiểu là: VPHC cần phải áp dụng hình thức phạt tiền thì chỉ những người có thẩm quyềnphạt tiền đến mức tối đa của khung tiền phạt được quy định đối với VPHC đó mới được ra quyết định xử phạt. Với quy định này góp phần hạn chế những người không có thẩm quyền xử phạt nhưng lạm quyền để ra quyết định xử phạt. Đồng thời, quy định này có ý nghĩa trong việc giới hạn phạm vi những VPHC mà người có thẩm quyền có thể ra quyết định xử phạt.
Tuy nhiên, những điểm bất cập cần được khắc phục ở quy định này vẫn còn tồn tại, cụ thể:
- Bốn là, Căn cứ vào trường hợp vi phạm hành chính( khoản 3, điều 42 ).Tại khoản 3 Pháp lệnh quy định hình thức, mức xử phạt được quy định đối với từng hành vi VPHC, lĩnh vực và địa điểm thực hiện của từng hành vi. Việc quy định như vậy là khá thích hợp, khá chặt chẽ, cụ thể: đối với một hành vi vi phạm mà vượt quá thẩm quyền thì hành vi đó phải được chuyển lên cấp có thẩm quyền cao hơn để giải quyết chứ người không có thẩm quyền không được tùy tiện giải quyết. Đây là quy định rất hợp lí, tạo ra sự tuân thủ trình tự, quy định của pháp luật ngay là khâu tiếp nhận đến khi giải quyết hoàn chỉnh vụ việc vi phạm.
Tuy nhiên, hạn chế của quy định này là:
+ “Pháp lệnh không quy định khi xử phạt nhiều người cùng thực hiện một hành vi VPHC, thì người có thẩm quyền ra mấy quyết định và các căn cứ để xác định thẩm quyền ra quyết định xử phạt”[3].
+ Trong Pháp lệnh không đề cập đến các dấu hiệu cơ bản để xác định hành vi VPHC trong trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi VPHC.
c. Giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền XPVPHC
- Thẩm quyền xử phạt hành chính cần được phân cấp mạnh hơn cho cấp cơ sở, kết hợp với cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ để chống lạm quyền.
- Quy định cho tất cả các chức danh có thẩm quyền xử phạt hành chính đều có quyềnáp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra.
- “Sửa đổi nguyên tắc về uỷ quyền trong Pháp lệnh XLVPHC hiện hành:Quy định về uỷ quyền trong Pháp lệnh hiện nay quá cứng nhắc (chỉ được uỷ quyền trong trường hợp vắng mặt và bằng văn bản)”[4].
   2. Tính hợp lí của pháp luật về thủ tục xử phạt VPHC
Thủ tục xử phạt VPHC được quy định chủ yếu tại Chương VI Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) năm 2002 (Pháp lệnh năm 2002) được sửa đổi, bổ sung năm 2008. Để cụ thể hóa một số quy định của pháp luật hiện hành, Chính phủ ban hành Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ tục xử phạt bao gồm các nội dung: đình chỉ hành vi vi phạm; lập biên bản vi phạm (trừ trường hợp xử phạt theo thủ tục đơn giản, tức là thủ tục không phải lập biên bản); ban hành quyết định xử phạt; thi hành quyết định xử phạt; tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp đối tượng bị xử phạt không tự nguyện thi hành quyết định xử phạt. Những quy định về thủ tục xử phạt VPHC của Pháp lệnh XPVPHC  thể hiện rõ hơn sự minh bạch của pháp luật, thể hiện quan điểm của nhà nước về cải cách thủ tục hành chính.
a. Sự phân chia thủ tục xử phạt thành 2 thủ tục: thủ tục đơn giản và thủ tục lập biên bản
Việc phân ra thành 2 thủ tục XPVPHC: thủ tục đơn giản và thủ tục có lập biên bản đáp ứng được yêu cầu của công tác XPVPHC trong thực tế khi vấn đề xử lí vi phạm được đặt ra phải nhanh chóng, công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền,…Việc quy định hai thủ tục xử phạt VPHC tạo nên sự linh hoạt trong hoạt động xử phạt, vừa nhanh chóng, vừa chính xác trong khả năng và điều kiện cho phép thực hiện.
+ Thủ tục đơn giản: thủ tục được quy định tại điều 54 Pháp lệnh XLVPHC 2002 ( sửa đổi, bổ sung 2007, 2008 ) khi phát hiện hành vi vi phạm người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt ngay. Tuy nhiên, điều kiện để áp dụng thủ tục này là hành vi là hành vi VPHC phải đơn giản, vi phạm nhỏ, rõ ràng, không có tình tiết phức tạp cần phải xác minh thêm để khi phát hiện hành vi VPHC thì người có thẩm quyền có thể căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm để ra quyết định xử phạt. Thủ tục đơn giản tạo điều kiện cho việc xử lí VPHC một cách nhanh gọn, cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp phạt tại chỗ, vụ việc được giải quyết nhanh chóng, trật tự quản lý cũng được nhanh chóng khôi phục. Điều đó không chỉ tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước và người thi hành công vụ mà còn cho cả cá nhân, tổ chức vi phạm.
+ Thủ tục có lập biên bản về VPHC: thủ tục này được quy định tại điều 55 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 ( sửa đổi, bổ sung 2008 ). Thủ tục này được áp dụng khi phát hiện hành vi vi phạm , người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt ngay mà phải lập biên bản XPVPHC. Với việc thực hiện thủ tục này đảm bảo việc xử phạt có cơ sở, đồng thời đó cũng là cơ sở để người bị xử phạt khiếu nại, khởi kiện và cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và xét xử vụ kiện đối với quyết định xử phạt VPHC.
Tuy nhiên việc áp dụng hai thủ tục xử phạt này vẫn còn tồn tại những điểm hạn chế: theo quy định của Pháp lệnh thì có hai hình thức XPVPHC: thủ tục đơn giản và thủ tục có lạp biê bản, như vậy có nghĩa khi XPVPHC chỉ có thể áp dụng thủ tục đơn giản hoặc thủ tục có lập biên bản, ngoài ra không còn thủ tục nào khác, như vậy sẽ tạo ra sự không hợp lí trong một trường hợp như:
+ Hành vi VPHC có mức xử phạt trên 200 000 đồng nhưng đã xảy ra quá lâu và trên thực tế đã hết thời hiệu xử phạt thì trong trường hợp này cần phải xử phạt theo thủ tục nào? Bởi trong thực tế không phải trường hợp VPHC nào cũng được phát hiện ngay mà có trường hợp hành vi vi phạm đã chấm dứt khá lâu mới bị phát hiện. Trong khi đó, biên bản là thủ tục được ghi chép ngay sau khi sự việc diễn ra, như vậy trong trường hợp này việc áp dụng thủ tục lập biên bản là không hợp lí vì có thể có hiện trường nhưng do thời gian đã không còn.
b. Người có thẩm quyền lập biên bản
Người có thẩm quyền lập biên bản được quy định tại khoản 1, điều 55 Pháp lệnh XLVPHC 2002 9 sửa đổi, bổ sung 2008 ) “ Trong trường hợp VPHC không thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản đó phải được chuyển ngay đến người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử phạt” . Như vậy, người lập biên bản phải thỏa mãn đầy đủ ba điều kiện: “ có thẩm quyền xử phạt, đang thi hành công vụ, hành vi vi phạm thuộc lĩnh vực vủa người lập biên bản”[5]. Như vậy, qua 3 điều kiện trên thì người có thẩm quyền lập biên bản được hiều là những người có thẩm quyền XPVPHC  trong một lĩnh vực quản lí chuyên ngành và những người có thẩm quyền XPVPHC trong mọi lĩnh vực..Quy định này, tạo điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp, kết hợp  giữa các cơ quan có liên quan trong XLVPHC. Nó đáp ứng được yêu cầu của thực tế bởi: nó cho phép mọi chủ thể đang thi hành công vụ đều có thẩm quyền lập biên bản xử phạt, điều này là hoàn toàn hợp lí vì khi công tác XPVPHC muốn được thực hiện có hiệu quả thì thủ tục lập biên bản phải được thực hiện mọi lúc, mọi nơi dù người lập biên bản có thẩm quyền xử phạt hay không.
Mặt khác, hạn chế của quy định này là:
+ Một người thực hiện nhiều hành vi VPHC trong các lĩnh vực khác nhau thì người có thẩm quyền chỉ ra một quyết định, trong đó quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi rồi tổng hợp thành một mức chung. Qua đó, một quyết định xử phạt phải dựa trên hai biên bản xử lí hành chính làm cho việc xử phạt trở nên phức tạp hóa và không cần thiết.
+ Người có thẩm quyền xử phạt phát hiện hành vi vi phạm thuộc lĩnh vực của mình trong thời gian không thi hành công vụ: việc không quy định cho phép người có thẩm quyền xử phạt khi không thi hành công vụ không được lập biên bản có thể “ coi là sự lãng phí nhân lực, làm giảm công tác đấu tranh, phòng chống VPPL”[6] .
c. Thủ tục phạt tiền
Thủ tục phạt tiền được quy định tại điều 57 của Pháp lệnh, trong đó có quy định: “ tiền phạt có thể được nộp một lần hoặc nhiều làn trong thời hạn do người có thẩm quyền xử phạt quyết định”. Đây là một quy định khá hợp lí, phù hợp với thực tiễn nước ta vì: trên thực tế không phải chủ thể nào vi phạm cũng có điều kiện về tài chính, có những chủ thể khó khăn do đó việc đặt ra quy định này nhằm giúp đỡ những người khó khăn về tài chính có thể chấp hành nộp phạt, thực hiện nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ.
d. Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
Điều 66, 67 Pháp lệnh quy định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt gồm: trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong việc thi hành quyết định cững chế thi hành quyết định XPVPHC và thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế. Với việc quy định tạo điều kiện thực hiện việc XPVPHC một cách đầy đủ, nhất là đối với các trường hợp không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt. Đồng thời, đây cũng là một hình thức răn đe những cá nhân nào có ý định không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình đối với nhà nước.
Tuy nhiên, quy định này vẫn còn nhiều điểm bất cập, chưa phù hợp với tình hình nước ta hiện nay:
+ Việc cưỡng chế vẫn gặp những khó khăn nhất định, do chưa có sự  phối hợp của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế, như biện pháp khấu trừ tiền từ tài khoản tại ngân hàng. Bởi các ngân hàng do giữ uy tín, lấy mục đích kinh doanh đặt lên hàng đầu nên không muốn phối hợp, thực hiện việc cưỡng chế đối với cơ quan có thẩm quyền XPVPHC.
+ Mặt khác, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC là công việc khó khăn, phức tạp, “ trong khi đó trình tự, thủ tục cưỡng chế chưa được ban hành cũng là vấn đề gây khó khăn, lúng túng cho cơ quan có thẩm quyền xử phạt”[7]
+ Khó khăn khác trong việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế là cơ quan có thẩm quyền xử phạt không có lực lượng chuyên trách để thi hành các quyết định xử phạt VPHC.
e. Giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục XPVPHC
- Cần quy định cụ thể việc thi hành quyết định xử phạt đối với thủ tục xử phạt đơn giản và đối với thủ tục xử phạt có lập biên bản; quy định cụ thể việc thi hành quyết định xử phạt đối với một số hình thức xử phạt đặc biệt như thủ tục thi hành hình thức phạt tiền, thủ tục thi hành hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, thủ tục thi hành hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện VPHC…
- Cần quy định lại việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc XPVPHC.
C – KẾT LUẬN




[1]Nguyễn Mạnh Hùng, “Hoàn thiện về pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 206-thang-11-2011 ngày 05/11/2011.
[2]Nguyễn Mạnh Hùng, “Hoàn thiện về pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 206-thang-11-2011 ngày 05/11/2011.

[3]Nguyễn Thanh Hà, “ Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và việc xây dựng Bộ luật xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số

[6] Bùi Thị Đào, “Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính”, Tạp chí Luật học, số, tr. 20

[7] Trương Khánh Hoàn, Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong Dự án Luật Xử lý vi phạm hành chính, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 205-thang-10-2011 ngày 20/10/2011).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét