Thứ Hai, 11 tháng 7, 2016

Sự vận dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay trong điều kiện nền kinh tế mở, với tỷ giá hối đoái cố định và tư bản vận động hoàn toàn tự do


Năm 2013, dự báo kinh tế nước ta sẽ tiếp tục khó khăn, diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro; tăng trưởng kinh tế không cao hơn nhiều so với năm 2012. Hai công cụ chủ yếu giữ vai trò quyết định trong việc quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế được Chính phủ sử dụng là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Để hiểu rõ hơn về các chính sách này và cũng như thấy được những tác động của chính sách đó đến nền kinh tế vĩ mô ở nước ta hiện nay, em đã tìm hìm hiểu đề bài “Sự vận dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay trong điều kiện nền kinh tế mở, với tỷ giá hối đoái cố định và tư bản vận động hoàn toàn tự do”.
 NỘI DUNG
I. Tác động của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều kiện nền kinh tế mở, với tỉ giá hối đoái cố định và tư bản vận động hoàn toàn tự do.
Với giả định là tỉ giá hối đoái cố định và tư bản vận động hoàn toàn tự do kết hợp với nền kinh tế nhỏ như đất nước của chúng ta tham gia vào thị trường chung của thế giới. Khi đó, chính sách tiền tệ của nước ta không ảnh hưởng đến lãi suất chung của thế giới, lãi suất trong nước có xu hướng giao động xung quanh mức lãi suất của thế giới. Tức là giả sử mức lãi suất thế giới là cho trước, kí hiệu là i*, mức lãi suất trong nước kí hiệu là i. Khi lãi suất trong nước tăng lên trên mức lãi suất thế giới (i>i*), sẽ có nhiều công nhân và các nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào nước ta để có thể thu được một khoản tiền lãi cao hơn. Một luồng vốn sẽ chảy vào nước ta cho đến khi lãi suất trong nước sẽ cân bằng với mức lãi suất thế giới (i=i*). Khi lãi suất trong nước thấp hơn mức lãi suất của thế giới (i<i*), một số vốn trong nước sẽ ra đi cho tới khi cân bằng về lãi suất được lập lại.
Các công cụ phân tích tác động của chính sách tài khóa và tiền tệ trong nền kinh tế mở: đường IS biểu thị cân bằng của thị trường hàng hóa tương ứng với các tổ hợp lãi suất – thu nhập (i, Y) khác nhau, sự dịch chuyển của đường IS trong nền kinh tế phụ thuộc vào chi tiêu của chính phủ (G), mức thuế (T) và cán cân thương mại (xuất khẩu ròng – NX). Đường LM biểu thị sự cân bằng của thị trường tiền tệ tương ứng với mức cung tiền thực tế đã cho (MS/p), khi cung tiền thực tế thay đổi, đường LM sẽ dịch chuyển. Đường CM là đương song song với trục hoành ở mức lãi suất i=i*.
Trong điều kiện tỉ giá hối đoái được ngân hàng trung ương (NHTW) quy định và giữ ở một mức cố định đã công bố (E cố định), NHTW (Chính phủ) không thể đồng thời theo đuổi hai mục tiêu vừa giữ E cố định, vừa giữ mức cung tiền cố định. Thật vậy, vì một lí do nào đó, lãi suất trong nước tăng lên và lãi suất trong nước cao hơn lãi suất thế giới (i↑, i>i*) →vốn quốc tế đổ vào nội địa (vốn bằng ngoại tệ) →cung ngoại tệ tăng →NHTW mua ngoại tệ bằng nội tệ, nhân dân bán ngoại tệ để đổi lấy nội tệ →nội tệ tăng trong nền kinh tế. 
1.Tác động của chính sách tài khóa.
Chính sách tài khóa là các quyết định của Chính phủ về chi tiêu và thuế khóa. Chính sách tài khóa có hai loại: chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tài khóa thắt chặt. Thực hiện chính sách tài khóa mở rộng, chính phủ nhằm tăng tổng cầu của nền kinh tế, bằng cách mở rộng chi tiêu hay giảm thuế, hay thực hiện cả hai. Ngược lại, khi Chính phủ thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, Chính phủ sẽ giảm chi tiêu hoặc tăng thuế, hay thực hiện đồng thời cả hai, nhằm mục đích giảm bớt tổng cầu.
Giả sử nền kinh tế đang ở trạng thái cân bằng E. Nếu chính phủ áp dụng chính sách tài khóa mở rộng (tăng G, giảm thuế hoặc cả hai) thì:
Trong ngắn hạn: Chính sách tài khóa mở rộng làm cho tổng cầu tăng lên mà mức giá lại không đổi nên đường IS dịch chuyển sang phải, cân bằng mới tại E’ dẫn đến lãi suất tăng lên (i>i*). Vốn nước ngoài đổ vào trong nước làm cho cung ngoại tệ tăng. Để giữ E cố định, NHTW sẽ phải mua vào ngoại tệ làm cho tăng cung tiền MS (giá không đổi) thì cung tiền thực tế MS/p tăng. Đường LM dịch chuyển sang phải thành LM’. Cân bằng mới của nền kinh tế được thiết lập tại E’’ với sản lượng tăng lên, mức lãi suất cân bằng trên đường CM. Như vậy, chính sách tài khóa mở rộng tác động mạnh hơn trong nền kinh tế mở, có thể hạn chế tháo lui đầu tư.
Trong dài hạn: sự tăng lên của tổng cầu sẽ dẫn đến tăng mức giá chung, giảm khả năng cạnh tranh của các hàng hóa trong nước, giảm xuất khẩu ròng, sản lượng giảm. Quá trình này sẽ tiếp tục cho đến khi trạng thái cân bằng cũ E được thiết lập lại. Lúc này, cán cân thương mại bị thâm hụt. Như vậy, chính sách tài khóa không thể đạt được đồng thời hai mục tiêu cân bằng trong nước và cân bằng ngoài nước trong điều kiện E cố định và lãi suất quốc tế cố định.
2. Tác động của chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là chính sách tác động đến lượng cung ứng tiền tệ và lãi suất từ đó tác động đến tổng cầu nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô như tạo công ăn việc làm, giảm lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ ổn định giá trị đồng tiền,…Theo đó, NHTW có thể sử dụng các công cụ khác nhau để tác động đến mức cung tiền (mức cung tiền là tổng số tiền có khả năng thanh khoản bao gồm tiền mặt lưu hành trong lưu thông và các khoản tiền gửi không kì hạn tại các ngân hàng thương mại) và lãi suất. Các công cụ chủ yếu bao gồm: thứ nhất là hoạt động thị trường mở, đây là hoạt động mua vào hay bán ra các trái phiếu Chính phủ của NHTW, muốn tăng mức cung tiền thì NHTW sẽ mua trái phiếu của Chính phủ, tức là bơm tiền vào NHTM, làm tăng lượng tiền dự trữ trong các NHTM giúp tăng khả năng cho vay của các NHTMvà ngược lại; thứ hai là NHTW sẽ quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, muốn tăng mức cung tiền, NHTW sẽ giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc và ngược lại; thứ ba là quy định lãi suất chiết khấu - là lãi suất mà các ngân hàng thương mại phải trả cho NHTW từ các khoản đi vay của NHTW, muốn tăng mức cung tiền, NHTW sẽ giảm lãi suất chiết khấu và ngược lại. Ngoài ra, NHTW có thể sử dụng các công cụ khác như kiểm soát tín dụng có lựa chọn hoặc quy định trực tiếp đối với lãi suất tiền gửi, tiền cho vay (trần lãi suất tiền gửi, trần lãi suất cho vay).
Giả sử, nền kinh tế mở đang ở trạng thái cân bằng E, NHTW quyết định thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng với việc tăng cung tiền danh nghĩa. Với mức giá đã cho, cung tiền thực tế MS/p tăng lên, đường LM dịch chuyển sang phải đến LM’. Lãi suất giảm xuống dưới mức lãi suất của thế giới. Các nhà đầu tư trong nước sẽ tìm kiếm cơ hội đầu tư ở nước ngoài. Quá trình này kéo dài cho đến khi mức cung tiền và lãi suất trở lại mức ban đầu. Như vậy, chính sách tiền tệ kém hiệu lực hơn nền kinh tế đóng, tác động tăng cung tiền của NHTW đã bị triệt tiêu bởi nguồn vốn trong nước đổ ra nước ngoài làm cho lãi suất i giảm, sản lượng Y không tăng mặc dù đầu tư tư nhân trong nước có tăng lên.
Đối với chính sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt thì tác động tới nền kinh tế mở sẽ ngược lại.
II. Sự vận dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
Chúng ta đã thực hiện nhiệm vụ năm 2012 trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động rất phức tạp và khó khăn, việc áp dụng kết hợp chính sách tài khóa thắt chặt và chính sách tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát đã làm cho cầu nội địa giảm mạnh, hàng tồn kho lớn, lãi suất tín dụng tăng cao; doanh nghiệp khó tiếp cận vốn, sản xuất khó khăn. Nền kinh tế nước ta cũng đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội: Lạm phát được kiềm chế ở mức 6,81%; xuất khẩu tiếp tục đà tăng trưởng, cơ bản cân bằng xuất - nhập khẩu; các cân đối về tiền tệ, tín dụng, tài chính được kiểm soát; thị trường ngoại hối và tỷ giá ngoại tệ ổn định; dự trữ ngoại hối tăng, các chính sách an sinh xã hội được quan tâm,…
Tuy nhiên, áp lực lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn còn lớn; thị trường tiền tệ chưa thực sự ổn định, lãi suất cho vay tuy đã giảm nhưng vẫn còn cao, nợ xấu có xu hướng gia tăng; sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhất là trong tiếp cận vốn tín dụng, hàng tồn kho cao; thị trường bất động sản trầm lắng; thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh; đời sống của người dân, nhất là các đối tượng chính sách, người nghèo, người lao động có thu nhập thấp vẫn còn khó khăn,…
1.Quy định của Chính phủ về việc thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ tại Việt Nam năm 2013
Nhận thức rõ về tác động của hai chính sách tài khóa và tiền tệ cũng như tình hình nền kinh tế Việt Nam năm 2013, tại nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013, ngày 7/1/2013, Chính phủ đã đề ra mục tiêu tăng cường ổn định nền kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát với các các quy định cụ thể về việc thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, thận trọng, hiệu quả phối hợp với chính sách tài khóa chặt chẽ, triệt để tiết kiệm. Cũng vào ngày 7/1/2013, Chính phủ ban hành nghị quyết 02/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu. 
Theo đó, ngày 31/1/2013, ngân hàng Nhà nước ra chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2013 định hướng tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 14-16%, tín dụng tăng khoảng 12% với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt hiệu quả.
2. Tình hình thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
Ngày 26 tháng 4 năm 2013, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 4 năm 2013 thống nhất và kết luận: Trong tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2013, kinh tế vĩ mô tiếp tục đạt được những kết quả tích cực. Lạm phát được kiềm chế, giá cả, thị trường tương đối ổn định; chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 tăng 0,02% so với tháng 3 và tăng 2,41% so với tháng 12 năm 2012; lãi suất huy động tiền gửi ổn định, lãi suất cho vay tiếp tục có chiều hướng giảm, cơ cấu tín dụng có chuyển biến ở một số lĩnh vực ưu tiên; thanh khoản của các ngân hàng thương mại được cải thiện đáng kể; thị trường ngoại hối khá ổn định, dự trữ ngoại tệ tăng cao. Tổng kim ngạch xuất khẩu 4 tháng đầu năm tăng 16,9%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký và thực hiện đều tăng; tiến độ giải ngân vốn ODA đạt khá. An sinh xã hội và phúc lợi xã hội cơ bản được bảo đảm; các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, giải quyết việc làm... được quan tâm chỉ đạo. Bên cạnh đó, tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, tiềm ẩn nhiều rủi ro: kinh tế vĩ mô chưa vững chắc; tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; tiến độ thu ngân sách nhà nước chậm hơn so với cùng kỳ các năm trước; hoạt động sản xuất, kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, sức mua giảm, tiêu thụ chậm; khả năng hấp thụ vốn tín dụng của các doanh nghiệp còn khó khăn. Tổng dư nợ tín dụng mặc dù tăng cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2012 nhưng tăng chậm so với mục tiêu đề ra; quá trình tái cấu trúc ngân hàng thương mại, xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng và thị trường bất động sản chậm được giải quyết. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chậm lại; nhập khẩu trang thiết bị, nguyên liệu phục vụ sản xuất giảm; sản xuất, kinh doanh phục hồi chậm; sức mua của thị trường trong nước thấp, số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn ở mức cao. Tổng thu ngân sách nhà nước và tiến độ giải ngân vốn ngân sách nhà nước đạt thấp so với kế hoạch đề ra.
2.1.Vận dụng chính sách tài khóa thắt chặt ở Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, về chính sách thu ngân sách nhà nước. Kể từ khi có Luật DN đã hạn chế khả năng thu NSNN từ thuế thu nhập doanh ngiệp (TNDN) (2 tháng đầu năm 2013 đã có thêm 8.600 DN giải thể và dừng hoạt động), thị trường Bất động sản tiếp tục đóng băng làm giảm thu NSNN từ nhà đất. Theo đó, Chính phủ thực hiện chính sách   gia hạn thời hạn nộp thuế TNDN, thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thời hạn nộp tiền sử dụng đất; giảm tỷ lệ thu đối với một số khoản thu NSNN và hoàn lại tiền thuế bảo vệ môi trường đã nộp. Hoàn thiện hệ thống chính sách thu NSNN nhằm tạo môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân kinh doanh, Chính phủ đã xây dựng và đang hoàn thiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT… Ngoài ra còn thực hiện sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các thông tư hướng dẫn chế độ thu nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí trong các lĩnh vực bưu chính, viễn thông, biểu diễn nghệ thuật và điện ảnh, chăn nuôi. Thực hiện chính sách tăng thuế: Bộ Tài chính tăng thuế xuất khẩu than củi lên 10%; tăng thuế nhập khẩu xăng lên 19% (mức thuế mới này tăng 3% so với trước đây và được áp dụng từ ngày 8/5/2013), tăng mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng, tăng thuế nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng tăng,
Thứ hai, về chính sách chi NSNN, tập trung hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách quản lý chi tiêu tài chính – ngân sách (dự án Luật NSNN sửa đổi); quản lý chặt chẽ, đảm bảo chi theo đúng dự toán đã được phê duyệt, chống thất thoát, lãng phí, tham nhũng; triệt để tiết kiệm trong chi thường xuyên, nhất là các khoản chi về tổ chức lễ hội, hội nghị, hội thảo, mua xe công, chi phí công tác trong và ngoài nước; ưu tiên việc chi cho các nhiệm vụ, công tác chính trị quan trọng; bảo đảm nguồn lực thực hiện chính sách an sinh xã hội; rà soát lại hiệu quả việc sử dụng vốn của các chương trình mục tiêu quốc gia, bố trí hợp lý tỷ trọng vốn giữa chi sự nghiệp và chi đầu tư phát triển, ưu tiên chi cho các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Thứ ba, về cân đối ngân sách và quản lý nợ công, QH đã thông qua Nghị quyết số 32/2012/QH13 về dự toán NSNN năm 2013, trong đó tổng thu cân đối NSNN là 816.000 tỷ đồng, tổng chi cân đối NSNN là 978.000 tỷ đồng, bội chi NSNN là 162.000 tỷ đồng, tương đương 4,8% GDP. Trong quản lý nợ công, hệ thống văn bản pháp lý về quản lý nợ công đã và đang được hoàn thiện, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định nhằm quản lý chặt chẽ nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia, bảo đảm an toàn về nợ và an ninh tài chính quốc gia; tăng cường công tác giám sát, quản lý rủi ro và cơ cấu lại nợ công, nợ Chính phủ, nợ quốc gia; thực hiện trích lập dự phòng rủi ro và chủ động bố trí nguồn trả nợ các khoản vay đến hạn, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn; tăng cường quản lý, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay. Theo kết quả của Bộ tài chính thì Tổng thu cân đối thực hiện tháng 3 đạt 54.140 tỷ đồng (giảm 2,6% so với cùng kỳ năm 2012), Tổng chi NSNN tháng 3 đạt 70.850 tỷ đồng (tăng 6,0% so với cùng kỳ năm 2012).
2.2 Vận dụng Chính sách tiền tệ thắt chặt ở Việt Nam hiện nay.
Tình hình huy động vốn cho NSNN trong Quý I/2013, chủ động phát hành trái phiếu Chính phủ bù đắp bội chi NSNN và cho đầu tư phát triển phù hợp yêu cầu điều hành và với tình hình thị trường. Ước tính đến hết tháng 3/2013 đã huy động được gần 65,5 nghìn tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ, đạt 33,6% kế hoạch năm.
Trong 3 tháng đầu năm, Việt Nam vẫn xuất siêu gần nửa tỷ USD, mức xuất siêu lớn nhất so với cùng kỳ từ trước tới nay và là tín hiệu khả quan để cả năm 2013 tiếp tục xuất siêu hoặc nếu nhập siêu cũng không lớn như chỉ tiêu kế hoạch (dưới 8% kim ngạch xuất khẩu, tương đương với 10 tỷ USD). Nhờ đó, cán cân thương mại được thặng dư (theo ước tính của các chuyên gia, dự trữ ngoại hối tính đến nay đã đạt được 14 tuần nhập khẩu, vượt qua ranh giới an toàn tài chính theo thông lệ quốc tế).
Tình trạng găm giữ ngoại tệ giảm với 2 lý do chính: Tỷ giá đã được ổn định trong thời gian tương đối dài (năm 2011 chỉ tăng 2,24%, năm 2012 giảm 0,96%, quý I/2013 chỉ tăng 0,36%); lãi suất gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ thấp xa so với lãi suất tiết kiệm bằng VND, mặc dù lãi suất tiết kiệm bằng VND đã qua nhiều lần giảm. Nếu tính chung cả 2 yếu tố này thì việc giữ ngoại tệ là không có lợi. Tình trạng găm giữ ngoại tệ giảm tạo điều kiện để giảm tình trạng “đô la hoá” nền kinh tế kéo dài trong nhiều năm trước đó, đồng thời củng cố và nâng cao lòng tin đối với đồng nội tệ, một trong những yếu tố rất quan trọng góp phần kiềm chế lạm phát.
Ngày 10/5, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quyết định giảm 1% đối với các lãi suất chủ chốt, trừ quy định trần lãi suất huy động là 7,5%. Giảm lãi suất cho vay xuống mức 13%/năm. Không chỉ các lĩnh vực ưu tiên được giảm lãi suất cho vay xuống 10%/năm, nhiều ngân hàng thương mại cam kết sẽ đưa các khoản vay cũ xuống mức 13%/năm. Quy định các mức lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam như sau Lãi suất tái cấp vốn (7,0%/năm), Lãi suất tái chiết khấu (5,0%/năm), Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng (8,0%/năm). Hiện nay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền Việ Nam đồng áp dụng chung cho các ngân hàng là 3% tổng vốn huy động. Tỷ lệ này đã được duy trì không thay đổi suốt năm 2012. Trong năm 2013, NHNN sẽ tiếp tục điều hành linh hoạt, đảm bảo kiểm soát lượng cung tiền tương ứng phù hợp với định hướng điều hành tổng phương tiện thanh toán, tín dụng. Tăng trưởng tín dụng năm 2013 sẽ được kiểm soát ở mức khoảng 12% nhưng sẽ linh hoạt điều chỉnh theo diễn biến và tình hình thực tế. Đăc biệt, NHNN sẽ không kiểm soát tỷ trọng cho vay đối với lĩnh vực không khuyến khích, tiếp tục cho phép các tổ chức tín dụng tự quyết định cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ đối với các nhu cầu vốn để thanh toán ra nước ngoài tiền hàng nhập khẩu xăng dầu của các doanh nghiệp không có nguồn thu ngoại tệ và cho vay trong nước để thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu đối với doanh nghiệp có nguồn thu bằng ngoại tệ, thực hiện đến hết năm 2013.
3.Phương hướng thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ ở nước ta trong năm 2013
Thứ nhất, các giải pháp tác động đến chính sách tài khóa, tiền tệ để kích thích tổng cầu cần được thực hiện thận trọng, linh hoạt với liều lượng thích hợp, nhưng phải kiên định và nhất quán với mục tiêu ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát. Tất cả các bộ, cơ quan, địa phương phải thực hiện quyết liệt, sáng tạo, đồng bộ có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đã được Chính phủ đề ra tại nghị quyết số 01/NQ-CP và số 02/NQ-CP để ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, trước những diễn biến phức tạp của nền kinh tế, trong thời gian qua, Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt, thận trọng và liên tục được điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô trong từng giai đoạn, còn Chính sách tài khóa được hoàn thiện theo hướng bảo đảm thống nhất, minh bạch và công bằng.
Thứ ba, Chính sách tài khóa được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi Bộ Tài chính còn chính sách tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước thực hiện. Việc phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với điều hành kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn và dài hạn. Vì vậy cần có sự phối hợp hoạt động của hai cơ quan này trong việc thực hiện các chính sách vĩ mô của nền kinh tế nước ta hiện nay.
 KẾT LUẬN

Như vậy, kết quả thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ trong 4 tháng đầu năm 2013 của nước ta đã nói lên việc vận dụng hai chính sách này của Chính phủ vào thực tiễn nước ta tương đối phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, tình trạng nền kinh tế vĩ mô còn gặp nhiều khó khăn và diễn biến phức tạp trong thời gian tới đòi hỏi các cơ quan chức năng phải linh hoạt, nhận diện và đánh giá đúng nền kinh tế để vận dụng chính xác hai công cụ này phù hợp với từng giai đoạn nền kinh tế.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét