Thứ Hai, 11 tháng 7, 2016

“Giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật hiện hành - thực tế tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh từ tháng 7.2013 và ý kiến pháp lý của cá nhân em về vấn đề này

MỞ ĐẦU
Nền kinh tế phát triển dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo và sự khác biệt về nhu cầu tiêu dùng giữa các cá nhân có thu nhập. Đồng thời sự khác biệt vùng miền (thành thị và nông thôn) tác động đến mức sống khác nhau của người có thu nhập như nhau. Do đó quy định về giảm trừ gia cảnh trong luật thuế thu nhập cá nhân phải phù hợp với thực tế, đảm bảo công bằng và hợp lý trong việc chia sẻ gánh nặng về thuế đối với cá nhân có thu nhập. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này em xin được giải quyết bài tập sau: “Giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật hiện hành - thực tế tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh từ tháng 7.2013 và ý kiến pháp lý của cá nhân em về vấn đề này.”


NỘI DUNG
I, Khái quát về pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh.
1.Khái niệm và nội dung của Thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là thuế trực thu, đánh vào một số khoản thu nhập cao chính đáng được nhận từ nhiều nguồn khác nhau của cá nhân, nhằm thực hiện chính sách điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, góp phần thực hiện công bằng xã hội về thu nhập, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
*) Thuế thu nhập cá nhân mang một số đặc điểm sau:
- Có diện đánh thuế rộng là tất cả các cá nhân có thu nhập chịu thuế.
- Thuế thu nhập cá nhân luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia.
- Việc đánh thuế thu nhập cá nhân thường áp dụng theo nguyên tắc lũy tiên từng phần.
*) Chủ thể trong quan hệ pháp luật về thuế thu nhập cá nhân
Quan hệ pháp luật về thuế thu nhập cá nhân là quan hệ thu, nộp thuế phát sinh giữa nhà nước với các cá nhân có thu nhập chịu thuế được quy phạm pháp luật thuế thu nhập cá nhân điều chỉnh.
Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thu nhập cá nhân bao gồm
- Người thu thuế là cơ quan thuế (Tổng cục thuế trực thuộc Bộ Tài chính Cục thuế ở cấp tỉnh, thành phố Chi cục thuế cấp quận, huyện)
- NNT là cá nhân có thu nhập chịu thuế, bao gồm:
(1)Cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam. Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong  các điều kiện sau đây: (i)Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam. (ii) có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở thường xuyên theo quy định của pháp luật về cư trú; có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở, với thời hạn của các hợp đồng thuê từ 183 ngày trở lên trong năm tính thuế.
(2) Cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế  phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam. Cá nhân không cư trú là cá nhân không thỏa mãn điều kiện để trở thành cá nhân cư trú.
*) Thu nhập chịu thuế TNCN.
Thu nhập của cá nhân hình thành từ nhiều nguồn thu tạo lập thu nhập khác nhau phụ thuộc vào hành vi của cá nhân tạo ra nguồn thu nhập đó. Thuế thu nhập cá nhân phải điều tiết hợp lý đối với các khoản thu nhập của cá nhân, đảm bảo khả năng tái sản xuất lao động và tích lũy đối với cá nhân có thu nhập. Căn cứ vào tính ổn định của thu nhập, thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân có thể chia làm hai nhóm:
Thu nhập thường xuyên là những phần thu nhập mang tính ổn định đều đặn. Với một cá nhân thì thu nhập thường xuyên có thể hình thành từ hoạt động kinh doanh hay lao động làm thuê. Thu nhập này được xác định gồm (1) thu nhập từ kinh doanh (sản xuất, kinh doanh, hành nghề độc lập) và (2) thu nhập từ tiền lương tiền công (tiền lương, tiền công, phụ cấp, trợ cấp, thù lao …) Những khoản thu nhập thường xuyên giữ vai trò quan trọng đối với sự tồn tại của cá nhân là nguồn thu nhập chính để duy trì cuộc sống cá nhân có thu nhập và những NPT.
Thu nhập không thường xuyên là những khoản thu nhập không mang tính ổn định và đều đặn. Thu nhập không thường xuyên của cá nhân bao gồm: (1) Thu nhập từ đầu tư vốn; (2)Thu nhập từ chuyển nhượng vốn; (3) thu nhập từ chuển nhượng bất động sản; (4) Thu nhập từ trúng thưởng; (5)Thu nhập từ bản quyền, (6) thu nhập từ nhượng quyền thương mại, (7) thu nhập từ nhận thừa kế, (8) thu nhập từ nhận quà tặng là tài sản. Những khoản thu nhập này nhằm mục đích phục vụ nhu cầu thiết yếu của cá nhân tạo lập thu nhập.

*) Căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân: thuế TNCN được tính căn cứ vào 2 căn cứ: thu nhập tính thuế trong kỳ tính thuế  và thuế suất

Cá nhân cư trú
Cá nhân không cư trú
Thu nhập chịu thuế
Phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam
Phát sinh tại Việt Nam
Cách tính
Thu nhập tính thuế  thuế suất (lũy tiến từng phần)
Thu nhập tính thuế  Thuế suất (toàn phần)
Kỳ tính thuế
1.theo năm: thu nhập từ kinh doanh; thu nhập từ tiền công, tiền lương.
2. Theo từng lần phát sinh thu nhập: các khoản thu nhập còn lại.
3. do cá nhân lựa chọn
Theo từng lần phát sinh thu nhập đối với tất cả các khoản thu nhập chịu thuế
2.Khái niệm và đặc điểm về giảm trừ gia cảnh.
Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú.
Giảm trừ gia cảnh gồm 2 phần sau: thứ nhất là mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế và thứ hai là mức giảm trừ đối với những người phụ thuộc (NPT). Mức giảm trừ gia cảnh này được xây dựng trên cơ sở tham chiếu các chỉ tiêu GDP bình quân đầu người, mức thu nhập, chi tiêu trung bình của xã hội và tiền lương tối thiểu tại thời điểm Luật có hiệu lực thi hành đồng thời tham khảo chính sách và xu thế cải cách thuế TNCN của các nước trong khu vực.
Việc xác định mức giảm trừ đối với NPT phải tuân theo nguyên tắc: mỗi NPT chỉ được tính giảm trừ một lần vào một người nộp thuế (NNT) trong năm tính thuế. Trường hợp có nhiều NNT có chung NPT phải nuôi dưỡng thì phải tự thỏa thuận để đăng ký giảm trừ gia cảnh vào một NNT.
NPT là người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng. Do đó, việc xác định đối tượng phụ thuộc phải dựa trên những mối quan hệ gắn bó giữa người đó với đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng (quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng đang tồn tại, quan hệ huyết thống).
Theo quy định của pháp luật hiện hành:
-          Mức giảm trừ đối với NNT là 9 triệu đồng/tháng (108 triệu/năm)
-          Mức giảm trừ đối với mỗi NPT là 3,6 triệu đồng/tháng.
NPT là người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng, bao gồm:
(i)  Con chưa thành niên; con bị tàn tật, không có khả năng lao động;
(ii) Các cá nhân không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượt quá mức quy định, bao gồm con thành niên đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề; vợ hoặc chồng không có khả năng lao động; bố, mẹ đã hết tuổi lao động hoặc không có khả năng lao động; những người khác không nơi nương tựa mà NNT phải trực tiếp nuôi dưỡng.
3.Vai trò, ý nghĩa của việc quy định giảm trừ gia cảnh trong luật thuế thu nhập cá nhân.
Giảm trừ gia cảnh được đặt ra để phân loại nhóm đối tượng và phù hợp với từng cá nhân dựa trên mức thu nhập so với phần dành cho mức sống bình quân. Mục đích là để hướng đến loại bớt nhóm có thu nhập tạm gọi là thấp. Việc pháp luật quy định về giảm trừ gia cảnh có ý nghĩa vô cùng quan trọng và thiết thực. Điều này được thể hiện thông qua những vai trò của quy định pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh, cụ thể như sau:
Một là góp phần đảm bảo được mức sống cho cá nhân làm ra thu nhập. Cá nhân trước khi phải nộp một khoản thu nhập vào ngân sách nhà nước để phục vụ lợi ích công, lợi ích xã hội thì bản thân cá nhân đó cũng phải đảm bảo được cuộc sống của chính mình. Đây là biện pháp góp phần tái tạo sức lao động của người chịu thuế và tạo điều kiện để người lao động có thể tiếp tục lao động với năng suất cao hơn. Chính vì vậy mà pháp luật thuế thu nhập cá nhân đã quy định cụ thể mức giảm trừ cho bản thân NNT - mức khởi điểm có thể phải chịu thuế. Việc xác định mức giảm trừ này là bao nhiêu sẽ phụ thuộc vào quan điểm, ý chí của những nhà lập pháp, dựa trên các yếu tố liên quan thực trạng nền kinh tế, tình hình lạm phát, thu nhập và chi tiêu bình quân đầu người, mức GDP bình quân đầu người,…
Hai là đảm bảo cuộc sống cho những NPT của đối tượng nộp thuế. Cá nhân làm ra thu nhập không chỉ phục vụ cho sự tồn tại của chính bản thân họ mà còn phục vụ cho sự tồn tại của những NPT, những người họ có trách nhiệm nuôi dưỡng (cha, mẹ, vợ/chồng, con,…). Chỉ khi cuộc sống của những NPT được đảm bảo thì cá nhân đó mới có thể yên tâm lao động, sản xuất tạo thu nhập. Vì vậy quy định này như một bài thuốc về tinh thần giải phóng sức lao động của người lao động, động viên, khích lệ khát vọng làm giàu chính đáng của người lao động.
Ba là quy định về giảm trừ gia cảnh cho NPT đảm bảo sự công bằng giữa các đối tượng nộp thuế, góp phần thực hiện mục tiêu điều tiết thu nhập, đảm bảo sự phát triển toàn diện của nền kinh tế -  xã hội. Cá nhân NNT có trách nhiệm nuôi dưỡng nhiều NPT sẽ được giảm trừ nhiều hơn so với người độc thân, hay người có trách nhiệm nuôi dưỡng ít NPT hơn.
Ngoài ra quy định này còn góp phần nâng cao tinh thần đoàn kết, tương trợ giữa các thành viên trong gia đình, phát huy truyền thống, đạo đức của con người Việt Nam.
II Giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật hiện hành
Pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh được thể hiện qua các văn bản pháp luật sau:
Luật thuế TNCN số 04/2007/QH12;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật TNCN số 26/2012/QH13;
Nghị định số 65/2013/NĐ-CP của chính phủ quy định chi tiết một số điều của luật thuế TNCN và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN;
Thông tư 111/2013/TT-BTC hướng dẫn thực hiện luật thuế TNCN, luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế TNCN và nghị định số 65/2013/NĐ-CP của chính phủ quy định chi tiết một số điều của luật thuế TNCN và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế TNCN;
Luật quản lý thuế năm 2006, sửa đổi năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 6/11/2013 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 của Chính phủ
...
Pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh đã quy định cụ thể mức giảm trừ gia cảnh, xác định rõ ai là NPT của NNT, các hồ sơ, thủ tục kê khai giảm trừ đối với NPT.
1.Mức giảm trừ.
Việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh cần tính tới chính sách và lộ trình cải cách tiền lương của nhà nước, tỷ lệ và mức tăng trưởng kinh tế, mức GDP bình quân đầu người, thu nhập và chi tiêu bình quân đầu người dự kiến vào năm Luật có hiệu lực thi hành đồng thời tham khảo chính sách và xu thế cải cách thuế TNCN của các nước trong khu vực.
*) Vài nét về mức giảm trừ gia cảnh theo Luật thuế Thu nhập cá nhân năm 2007 số 04/2007/QH12
Luật thuế TNCN năm 2007 có quy định giảm trừ gia cảnh trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú (mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân NNT 4 triệu đồng/tháng; cho mỗi NPT là 1,6 triệu đồng/tháng). Mức giảm trừ gia cảnh này được xây dựng trên cơ sở tham chiếu các chỉ tiêu GDP bình quân đầu người, mức thu nhập, chi tiêu trung bình của xã hội và tiền lương tối thiểu tại thời điểm Luật có hiệu lực năm 2009.
Theo báo cáo tổng kết 3 năm thi hành Luật Thuế TNCN của Bộ Tài chính thì số người có thu nhập từ tiền lương, tiền công chưa đến mức phải nộp thuế năm 2009 là: 3.613 nghìn người; năm 2010 là: 6.582 nghìn người; năm 2011 là: 8.777 nghìn người  số NNT TNCN tăng nhanh qua các năm. Năm 2011, Số người có thu nhập từ tiền lương, tiền công nộp thuế ở bậc 1 chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số người phải nộp thuế (73,3%) nhưng số thuế nộp không lớn so với tổng số thuế thu từ tiền lương, tiền công (10,0%). Số NNT từ bậc 2 trở lên không lớn (26,7%) nhưng số thuế nộp chiếm tỷ trọng lớn (90,0%). Do đó, qua việc điều tiết thuế TNCN như trên đã góp phần làm giảm hợp lý khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư.
Thực tế từ năm 2009, do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nền kinh tế - xã hội nước ta gặp nhiều khó khăn, giá cả hàng hoá, dịch vụ tăng cao làm ảnh hưởng đến đời sống NNT. Do đó, mức giảm trừ gia cảnh là 4 triệu đồng/tháng đã không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Thêm vào đó, để góp phần thực hiện việc giảm tỷ lệ động viên thuế, phí trên GDP theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2020, đảm bảo tính ổn định của chính sách cho giai đoạn sau năm 2014, đồng thời để có sự quan tâm, chia sẻ của Nhà nước đối với NNT trước bối cảnh khó khăn của nền kinh tế thì việc nâng mức giảm trừ gia cảnh là thiết yếu.
*) Mức giảm trừ theo quy định của pháp luật hiện hành.
Trong bối cảnh hiện nay, khi giá cả biến động, tình hình kinh tế có tác động không thuận đến đời sống người dân thì việc tăng mức giảm trừ gia cảnh là hợp lý và cần thiết, góp phần chia sẻ khó khăn với NNT. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là tăng lên mức bao nhiêu là phù hợp, đảm bảo cuộc sống của NNT, huy động nguồn lưc, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, hài hòa lợi ích giữa NNT với lợi ích nhà nước.
Dựa trên sự tham chiếu sự biến động của các yếu tố (Tăng trưởng kinh tế, GDP bình quân đầu người, Chỉ số CPI, Mức lương tối thiểu áp dụng đối với khu vực hành chính sự nghiệp, Thu nhập, chi tiêu hộ gia đình và mức sống trung bình xã hội, Tham khảo kinh nghiệm quốc tế) kết hợp với tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Quốc hội khi thông qua Luật thuế TNCN năm 2007 và để phù hợp với chủ trương giảm dần tỷ lệ động viên về thuế, phí, lệ phí theo Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011 - 2020 và quan điểm, mục tiêu, yêu cầu của việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNCN lần này, ngày 30/7/2012, Chính phủ  đã trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho phép điều chỉnh nâng mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân NNT từ mức 4 triệu đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng (108 triệu đồng/năm); mức giảm trừ cho mỗi NPT từ 1,6 triệu đồng/tháng lên 3,6 triệu đồng/tháng. Đồng thời bổ sung quy định “mở” để khi giá cả thị trường biến động trên 20% thì Chính phủ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh cho phù hợp với sự biến động của giá cả.
Sau quá trình thảo luận, tổng kết, đánh giá ý kiến sâu rộng, tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa XIII ngày 22 tháng 11 năm 2012,  Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế Thu nhập cá nhân đã được thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2013.
Như vậy, quy định tại Điều 1 Khoản 4 Luật thuế TNCN sửa đổi năm 2012  đã sửa đổi, bổ sung quy định về giảm trừ gia cảnh tại Khoản 1 Điều 19 Luật thu nhập cá nhân năm 2007, cụ thể như sau:
“1. Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối vi thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. Giảm trừ gia cảnh gồm hai phần sau đây:
a) Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 9 triệu đồng/tháng (108 triệu đồng/năm);
b) Mức giảm trừ đối với mỗi NPT là 3,6 triệu đồng/tháng.
Trường hợp chsố giá tiêu dùng (CPI) biến động trên 20% so với thời đim Luật có hiệu lực thi hành hoặc thời đim điều chnh mức giảm trừ gia cảnh gần nhất thì Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh quy định tại khoản này phù hợp vi biến động của giá cả đáp dụng cho kỳ tính thuế tiếp theo.”
Như vậy, Người có thu nhập thấp hơn mức giảm trừ gia cảnh thì chưa phải nộp thuế. Người có thu nhập cao hơn mức giảm trừ gia cảnh phải nộp thuế theo biểu thuế luỹ tiến từng phần gồm 7 bậc (5%; 10%; 15%; 20%; 25%; 30%; 35%). Theo đó, người độc thân có thu nhập 9 triệu đồng/tháng chưa phải nộp thuế, người có 2 NPT có thu nhập từ 16,2 triệu đồng/tháng trở xuống chưa phải nộp thuế; người có thu nhập 20 triệu đồng/tháng nếu có 1 NPT chỉ nộp thuế 490 nghìn đồng/tháng (bằng 2,45% thu nhập chịu thuế), phần thu nhập của cá nhân sau khi nộp thuế là 19,51 triệu đồng; tương tự, nếu có 2 NPT thì số thuế nộp chỉ 190 nghìn đồng/tháng (bằng 0,95% thu nhập chịu thuế) và phần thu nhập sau khi nộp thuế là 19,81 triệu đồng. [1]
Để đảm bảo việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh được kịp thời, Luật sửa đổi, bổ sung luật thuế thu nhập cá nhân năm 2012 đã  quy định khi giá cả thị trường biến động trên 20% thì Chính phủ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh cho phù hợp với sự biến động của giá cả. Giá cả hàng hóa dịch vụ tăng cao sẽ làm giảm thu nhập thực tế của NNT cũng như sức mua tương đương của mức giảm trừ gia cảnh và ảnh hưởng tới đời sống của NNT, theo đó cần có sự điều chỉnh cho phù hợp trong trường hợp chỉ số giá có sự biến động lớn. Việc điều chỉnh mức giảm trừ theo tốc độ tăng giá cũng là phương thức cũng được một số nước trên thế giới áp dụng. Theo dự báo về kinh tế vĩ mô thì mức giảm trừ gia cảnh có thể phải thực hiện điu chnh khoảng 3 năm một lần. Việc điều chỉnh này tuy có phát sinh một số thủ tục trong quá trình xây dng văn bn quy phm pháp lut nhưng cũng có mặt tích cực là tính tới yếu tố lạm phát, đảm bảo sức mua của mức giảm trừ gia cảnh, phù hợp với thực tiễn.
Với mức giảm trừ gia cảnh này, mức điều tiết thuế được giảm ở tất cả các bậc, 100% NNT ở bậc 1 hiện nay sẽ chuyển sang diện không phải nộp thuế, 72% số NNT đang nộp ở bậc 2 sẽ được chuyển sang nộp thuế ở bậc 1, tương tự mức điều tiết giảm ở tất cả các bậc còn lại;[2]
2.Nguyên tắc tính giảm trừ gia cảnh.
Theo hướng dẫn thi hành tại Điều 12 Nghị định 65/2013/NĐ-CP, cụ thể chi tiết tại điểm c khoản 9 Thông tư 111/2013/TT-BTC thì nguyên tắc tính giảm trừ gia cảnh được xác định như sau:
(1)Đối với bản thân NNT
- NNT có nhiều nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công, từ kinh doanh thì tại một thời điểm (tính đủ theo tháng), NNT phải lựa chọn tính giảm trừ gia cảnh cho bản thân tại một nơi.
- Đối với cá nhân nước ngoài là cá nhân cư trú tại Việt Nam được giảm trừ gia cảnh cho bản thân từ tháng 1 hoặc từ tháng đến Việt Nam trong trường hợp cá nhân lần đầu tiên có mặt tại Việt Nam đến tháng kết thúc hợp đồng lao động và rời Việt Nam trong năm tính thuế (được tính đủ theo tháng).
- Trường hợp trong năm tính thuế cá nhân chưa giảm trừ cho bản thân hoặc giảm trừ cho bản thân chưa đủ 12 tháng thì được giảm trừ đủ 12 tháng khi thực hiện quyết toán thuế theo quy định.
(2)Đối với NPT:
-  NNT được tính giảm trừ gia cảnh cho NPT nếu NNT đã đăng ký thuế và được cấp mã số thuế.
- Khi NNT đăng ký giảm trừ gia cảnh cho NPT sẽ được cơ quan thuế cấp mã số thuế cho NPT và được tạm tính giảm trừ gia cảnh trong năm kể từ khi đăng ký. Đối với NPT đã được đăng ký giảm trừ gia cảnh trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục được giảm trừ gia cảnh cho đến khi được cấp mã số thuế.
- Trường hợp NNT chưa tính giảm trừ gia cảnh cho NPT trong năm tính thuế thì được tính giảm trừ cho NPT kể từ tháng phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng khi NNT thực hiện quyết toán thuế và có đăng ký giảm trừ gia cảnh cho NPT. Riêng đối với NPT khác theo hướng dẫn tại tiết d.4, điểm d, khoản 1, Điều này thời hạn đăng ký giảm trừ gia cảnh chậm nhất là ngày 31 tháng 12 của năm tính thuế, quá thời hạn nêu trên thì không được tính giảm trừ gia cảnh cho năm tính thuế đó.
-  Mỗi NPT chỉ được tính giảm trừ một lần vào một NNT trong năm tính thuế. Trường hợp nhiều NNT có chung NPT phải nuôi dưỡng thì NNT tự thỏa thuận để đăng ký giảm trừ gia cảnh vào một NNT.
3.Quy định về người phụ thuộc
NPT là người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng. Đối tượng và căn cứ xác định NPT mà NNT có trách nhiệm nuôi dưỡng được quy định tại Điều 12 Nghị định 65/2013/NĐ-CP và hướng dẫn cụ thể chi tiết tại điểm d, khoản 1 điều 19 Thông tư 111/2013/TT-BTC.
Theo đó, NPT bao gồm:
Nhóm (1): NPT là con mà NNT phải có trách nhiệm nuôi dưỡng. Xuất phát từ một trong những  nguyên tắc cơ bản về chế độ hôn nhân và gia đình là Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú. Thêm vào đó là mối quan hệ giữa cha mẹ và con đã được luật hóa tại Chương 4 của Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, không phụ thuộc vào đối tượng con của NNT là con trai hay con gái, con đẻ hay con nuôi, con trong giá thú hay con ngòai giá thú, là con riêng của vợ, con riêng của chồng thì  đều được xác định là NPT của NNT. Do vậy, pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh quy định NPT là con gồm: con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài giá thú, con riêng của vợ, con riêng của chồng, cụ thể như sau:
- Con dưới 18 tuổi (tính đủ theo tháng) – con chưa thành niên. Theo quy định tại Điều 34, 36, 37 và 38 Luật hôn nhân gia đình thì Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ chăm sóc và nuôi dưỡng con chưa thành niên. Đây là đối tượng chưa phát triển toàn diện về thể chất cũng như nhân cách. Vì vậy cha mẹ phải có trách nhiệm thương yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. Ví dụ: Con ông A sinh ngày 7 tháng 7 năm 2014 thì được tính là NPT từ tháng 7 năm 2014
- Con từ 18 tuổi trở lên bị khuyết tật, không có khả năng lao động. Đây là đối tượng không thể tự mình nuôi sống bản thân. Theo đó, cha mẹ với tư cách là những người đã sinh thành ra họ, đã xác định trách nhiệm nuôi dưỡng với họ (trong trường hợp là con nuôi) hay trở thành cha dượng, mẹ kế của họ thì đều phải có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng họ. Ví dụ, ông A (50 tuổi) có người con (anh B-25 tuổi) bị nhiễm chất độc màu da cam nên từ nhỏ mắt đã không nhìn thấy gì, các chi không phát triển nên không có khả năng di chuyển, lại còn hay lên cơn co giật. Ông A phải trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, thuốc men chữa trị cho con. Do đó, anh B được xác định là NPT của ông A.
- Con đang theo học tại Việt Nam hoặc nước ngoài tại bậc học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, kể cả con từ 18 tuổi trở lên đang học bậc học phổ thông (tính cả trong thời gian chờ kết quả thi đại học từ tháng 6 đến tháng 9 năm lớp 12) không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng. Pháp luật về giảm trừ gia cảnh xác định đối tượng này là NPT xuất phát từ chính sách khuyến học, định hướng nghề nghiệp cho cá nhân mới bắt đầu tuổi thành niên, đang còn đi học, không có đủ khả năng tạo thu nhập để nuôi sống bản thân, vẫn cần được sự chu cấp, nuôi dưỡng từ cha mẹ. Do vậy, cha mẹ sẽ được giảm trừ gia cảnh cho con thuộc trường hợp này. Ví dụ, bạn Dương hiện đang là sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội không có thu nhập được bố mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng, theo đó: Dương được xác định là NPT của bố hoặc mẹ.
Nhóm (2): Vợ hoặc chồng của NNT đáp ứng điều kiện (*) dưới đây. Dựa trên quan hệ hôn nhân giữa vợ với chồng phải thương yêu, chăm sóc lẫn nhau, trong trường hợp vợ/chồng vẫn trong độ tuổi lao động nhưng bị khuyết tật, không có khả năng lao động hay không có thu nhập/có thu nhập bình quân hàng tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1 triệu đồng thì chồng/vợ phải có trách nhiệm nuôi dưỡng, đảm bảo cuộc sống cho vợ/chồng của mình hoặc trong trường hợp vợ/chồng đã ngoài độ tuổi lao động và không có thu nhập/có thu nhập bình quân tháng trong năm không vượt quá 1 triệu đồng. Theo đó, người nộp phải dành một khoản thu nhập của mình chăm sóc, nuôi dưỡng vợ/chồng của mình. Do vậy, vợ/chồng của NNT đáp ứng điều kiện (*) sẽ được xác định là NPT của NNT. Ví dụ, anh A có vợ là chị B bị tai biến mạch máu não nên phải nằm liệt giường, không có khả năng lao động, không có thu nhập. Anh A phải chăm sóc, nuôi dưỡng chị B, do đó, chị B là NPT của anh A.
Nhóm (3): Cha đẻ, mẹ đẻ; cha vợ, mẹ vợ (hoặc cha chồng, mẹ chồng); cha dượng, mẹ kế; cha nuôi, mẹ nuôi hợp pháp của NNT đáp ứng điều kiện (*). Cha mẹ (không phân biệt cha/mẹ đẻ, cha/mẹ vợ, cha/mẹ kế, cha/mẹ nuôi của NNT ) nếu trong độ tuổi lao động mà bị tàn tật, không có khả năng lao động hay không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm không vượt quá 1 triệu đồng hoặc ngoài độ tuổi lao động và không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm không vượt quá 1 triệu đồng thì được xác định là NPT của NNT. Đây là đối tượng mà NNT phải dành một khoản thu nhập để thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng khi cha mẹ mình không thể tự nuôi sống bản thân. Ví dụ, bố đẻ của anh A bị đột quỵ, nằm liệt giường, không có thu nhập, anh A phải chăm sóc, phụng dưỡng bố mình, theo đó, bố anh được xác định là NPT của anh A.
Nhóm (4): Các cá nhân khác không nơi nương tựa mà NNT đang phải trực tiếp nuôi dưỡng và đáp ứng điều kiện (*), bao gồm
- Anh ruột, chị ruột, em ruột của NNT.
- Ông nội, bà nội; ông ngoại, bà ngoại; cô ruột, dì ruột, cậu ruột, chú ruột, bác ruột của NNT.
- Cháu ruột của NNT bao gồm: con của anh ruột, chị ruột, em ruột.
- Người phải trực tiếp nuôi dưỡng khác theo quy định của pháp luật.
            Quy định này xuất phát từ mối quan hệ giữa ông bà nội, ông/bà ngoại và cháu; giữa anh, chị, em và giữa các thành viên trong gia đình được luật hôn nhân gia đình điều chỉnh. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các thế hệ trong gia đình chăm sóc, giúp đỡ nhau nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Do vậy khi NNT đang trực tiếp nuôi dưỡng người thuộc trường hợp này sẽ được giảm trừ gia cảnh.
Cá nhân được tính là NPT rơi vào các trường hợp của nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4 thì phải đáp ứng các điều kiện(*) sau:
(i)Đối với người trong độ tuổi lao động phải đáp ứng đồng thời các điều kiện sau:
- Bị khuyết tật, không có khả năng lao động. Người khuyết tật, không có khả năng lao động là những người thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về người khuyết tật, người mắc bệnh không có khả năng lao động (như bệnh AIDS, ung thư, suy thận mãn,...).
- Không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.
(ii) Đối với người ngoài độ tuổi lao động phải không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.
Mức thu nhập 1 triệu đồng/tháng được cho là mức thu nhập đảm bảo mức sống tối thiểu trong điều kiện hiện nay.
4. Kê khai đối tượng phụ thuộc và trình tự thủ tục xem xét giảm trừ gia cảnh
Nguyên tắc khai thuế:  NNT phải khai chính xác, trung thực, đầy đủ các nội dung trong tờ khai thuế với cơ quan thuế theo mẫu do Bộ Tài chính quy định và nộp đủ các chứng từ, tài liệu quy định trong hồ sơ khai thuế.
Cơ chế thực hiện: tự khai – tự tính – tự nộp. Đây là phương thức quản lý thuế mới được xây dựng trên nền tảng sự tuân thủ của người nộp thuế.
NNT có thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, từ tiền công từ 9 triệu đồng/tháng thì không phải khai NPT. Quy định nhằm tránh tình trạng kê khai tràn lan làm tăng số lượng NPT đăng ký giảm trừ gia cảnh không cần thiết gây khó khăn trong công tác quản lý, theo dõi hồ sơ giữa cơ quan thuế với tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập.
NNT có thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công trên 9 triệu đồng/tháng: Để được giảm trừ gia cảnh cho NPT phải làm bản đăng ký NPT và nộp hồ sơ chứng minh NPT.
Trình tự, thủ tục kê khai giảm trừ gia cảnh đối với NPT được quy định chi tiết tại thông tư 111/2013/TT-BTC và các văn bản hướng dẫn về quản lý thuế. Người nộp thuế cần nắm rõ và tuân thủ các quy định này để được giảm trừ gia cảnh khi quyết toán thuế thu nhập cá nhân.
Cụ thể như sau:
(1)Đối với NNT có thu nhập từ tiền lương, tiền công.
(i) nộp bản đăng ký NPT.
- Trường hợp đăng ký NPT lần đầu:
+ NNT đăng ký NPT theo mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuếnộp hai (02) bản cho tổ chức, cá nhân trả thu nhập để làm căn cứ tính giảm trừ cho NPT.
+ Tổ chức, cá nhân trả thu nhập lưu giữ một (01) bản đăng ký và nộp một (01) bản đăng ký cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý cùng thời điểm nộp tờ khai thuế thu nhập cá nhân của kỳ khai thuế đó theo quy định của luật quản lý thuế.
+Đối với cá nhân trực tiếp khai thuế với cơ quan thuế thì cá nhân nộp một (01) bản đăng ký NPT cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý tổ chức trả thu nhập cùng thời điểm nộp tờ khai thuế thu nhập cá nhân của kỳ khai thuế đó theo quy định của Luật Quản lý thuế.
- Trong trường hợp đăng ký thay đổi về NPT:  NNT khai bổ sung thông tin thay đổi của NPT theo mẫunộp cho tổ chức, cá nhân trả thu nhập hoặc cơ quan thuế đối với NNT thuộc diện khai thuế trực tiếp với cơ quan thuế.
(ii) Nộp hồ sơ chứng minh NPT. Tùy từng đối tượng phụ thuộc mà NNT phải chuẩn bị các loại giấy tờ để chứng minh đối tượng đó là NPT của mình. Hồ sơ chứng minh NPT được quy định cụ thể, chi tiết tại điểm g, khoản 1 điều 9 thông tư 111/2013/TT-BTC.
Một điểm mà NNT phải chú ý là về địa điểm, thời hạn nộp hồ sơ chứng minh NPT:
- Địa điểm: nơi NNT nộp bản đăng ký NPT. Tổ chức trả thu nhập có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ chứng minh NPT và xuất trình khi cơ quan thuế thanh tra, kiểm tra thuế.
- Thời hạn nộp hồ sơ chứng minh NPT: trong vòng 3 tháng kể từ ngày nộp tờ khai đăng ký NPT (bao gồm cả trường hợp đăng ký thay đổi NPT).
            Quá thời hạn nộp hồ sơ nêu trên, nếu NNT không nộp hồ sơ chứng minh NPT sẽ không được giảm trừ cho NPT và phải điều chỉnh lại số thuế phải nộp.
(2)Đối với NNT có thu nhập từ kinh doanh
(i) nộp bản đăng ký NPT
- Cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp kê khai đăng ký NPT theo mẫu và nộp cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý cùng với tờ khai tạm nộp thuế. Khi có thay đổi (tăng, giảm) về NPT, NNT thực hiện khai bổ sung thông tin thay đổi của NPT theo mẫu và nộp cơ quan thuế trực tiếp quản lý.
- Cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán khai giảm trừ gia cảnh cho NPT theo tờ khai thuế khoán.
(ii) Nộp hồ sơ chứng minh NPT
Hồ sơ chứng minh NPT theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 9 Thông tư 111/2013/TT-BTC.
Thời hạn nộp hồ sơ chứng minh NPT: 3 tháng kể từ ngày khai giảm trừ gia cảnh (bao gồm cả trường hợp phát sinh tăng, giảm NPT hoặc mới ra kinh doanh).
Quá thời hạn nộp hồ sơ nêu trên, nếu NNT không nộp hồ sơ chứng minh NPT sẽ không được giảm trừ cho NPT và phải điều chỉnh lại số thuế phải nộp. Đối với cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán phải điều chỉnh lại mức thuế đã khoán.
5. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể  trong quan hệ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh.
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh nói riêng được quy định cụ thể tại Luật quản lý Thuế năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Các chủ thể trong quan hệ pháp luật thuế bao gồm NNT và cơ quan thuế.
*) NNT có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau:
(1) Quyền của NNT:
Việc luật quản lý thuế quy định quyền cơ bản của NNT, đảm bảo cho chủ thể này khi tham gia vào quan hệ pháp luật quản lí thuế không chỉ dưới góc độ người phải thực hiện nghĩa vụ như trước đây. Điều này giúp hài hòa mối quan hệ giữa NNT với cơ quan thuế, phát huy tối đa tính dân chủ, phát huy tinh thần tự giác, tự nguyện, chủ động nộp thuế của NNT. Cụ thể như sau:
- NNT có quyền được hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế, cung cấp thông tin để thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi về thuế. Khi đến cơ quan thuế giải quyết các yêu cầu thủ tục về thuế, NNT tiếp xúc trực tiếp với cán bộ thuế tại bộ phận một cửa để được hướng dẫn thực hiện việc kê khai, nộp các hồ sơ yêu cầu và nhận kết quả giải quyết mọi giao dịch.
- NNT có quyền ký hợp đồng vói tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế. Đây là một trong những quyền hoàn toàn mới của NNT. Thực tế cho thấy, quy định NNT có quyền ký hợp đồng với tổ chức hoạt động dịch vụ tư vấn thuế đảm bảo chung cho những đối tượng nộp thuế dù không có những hiểu biết và thành thạo trong các nghiệp vụ về thuế vẫn thực hiện nghĩa vụ kê khai quyết toán thuế đồng thời giảm bớt một phần gánh nặng cho cơ quan quản lý trong việc hướng dẫn NNT trong quá trình kê khai quyết toán thuế, nâng cao tính tự giác trong quá trình quản lý thuế của một bên chủ thể tham gia.
- NNT có quyền được bồi thường thiệt hại do cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế gây ra theo quy định của pháp luật. Khi cơ quan quản lý thuế ra quyết định phạt không đúng, hoặc quyết định thu sai thì NNT có quyền khiếu nại quyết định xử lý của cơ quan này lên cơ quan cấp trên hoặc cơ quan có thẩm quyền. Đây là quy định thể hiện rõ tính dân chủ của pháp luật thuế và đảm bảo niềm tin cho NNT đối với hành vi của cán bộ công chức thuế. Từ đó, đối tượng nộp thuế sẽ nghiêm túc hơn trong việc tính đúng, tính đủ số thuế phải nộp vào ngân sách nhà nước.
- NNT có quyền yêu cầu cơ quan quản lý thuế xác nhận nghĩa vụ nộp thuế của mình. Khi thực hiện cơ chế tự khai – tự tính – tự nộp, NNT tự xác định số thuế phải nộp căn cứ vào những quy định của luật thuế, tự kê khai thuế theo mẫu tờ khai quy định và chủ động nộp tiền thuế vào ngân sách nhà nước theo số đã kê khai đầy đủ và đúng hạn. Cơ quan quản lý thuế khi nhận tờ khai của NNT thì có trách nhiệm ghi nhân toàn bộ các thông tin trên tờ khai thuế cùng với nghĩa vụ nộp thuế phải nộp của NNT để theo dõi việc nộp tiền thuế vào ngân sách nhà nước. Vì vậy, bên chủ thể này có quyền yêu cầu cơ quan thuế xác nhận việc đã thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình nhằm thể hiện tính minh bạch, công khai trong quá trình thực hiện.
Một là, NNT có nghĩa vụ khai thuế chính xác, trung thực đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng thời hạn, chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực đầy đủ của hồ sơ thuế.
Hai là, NNT có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ thông tin cho cơ quan quản lí thuế. Nghĩa vụ này của NNT được thực hiện khi cơ quan quản lí thuế tiến hành thanh tra thuế tại trụ sở của NNT hoặc khi cơ quan quản lí thuế phát hiện NNT có những vi phạm pháp luật thuế cần kiểm tra, xác minh.
*) quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan thuế
(1) Về quyền của cơ quan thuế:
- Quyền yêu cầu NNT và các tổ chức, cá nhân có liên quan cũng cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế của NNT
- Cơ quan quản lí thuế có quyền thanh tra kiểm tra thuế. Việc kiểm tra thanh tra thuế được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến NNT, đánh giá việc chấp hành pháp luật của NNT và có quy trình rõ ràng khi cơ quan quản lí thuế thực hiện quyền này.
- cơ quan quản lí thuế có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn pháp luật về thuế; giải thích, cung cấp các thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế cho NNT.
- cơ quan quản lí thuế có trách nhiệm tổ chức xây dựng và quản lí cơ sở dữ liệu hạ tầng của hệ thống thông tin về NNT. Cụ thể trách nhiệm của cơ quan quản lí thuế trong xây dựng hệ thống thông tin NNT bao gồm: xây dựng hệ thống các chỉ tiêu thông tin, cơ sở dữ liệu cần thu thập từ NNT, từ cơ quan quản lí thuế từ bên thứ ba; chuẩn hóa mẫu biểu thu thập thông tin, thống nhất mẫu biểu với các tổ chức cá nhân cung cấp thông tin hoặc thu thập thông tin theo định dạng sẵn có của tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin; xây dựng, phát triển hệ thống hạ tầng kĩ thuật đáp ứng yêu cầu thu thập, xử lí, lưu trữ, truyền tải, khai thác xử dụng, kiểm soát thông tin trong cơ quan quản lí thuế.
- trong quá trình sử dụng thông tin về NNT, cơ quan quản lí thuế phải tuân thủ chế độ bảo mật thông tin về NNT
Ngoài ra luật quản lý thuế cũng đề cập tới trách nhiệm của các cơ quan có liên quan như: Cơ quan thông tin, báo chí có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật thuế và phản ánh, phê phán các hành vi vi phạm phát luật thuế. Các cơ quan quản lí nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ quản lí ngành có trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan đến NNT có cơ quan quản lí thuế hoặc phối hợp với cơ quan quản lí thuế thực hiện cưỡng chế thuế, xử lí nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật thuế.
III. Thực tế tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh từ tháng 7 năm 2013
Luật sửa đổi bổ sung luật thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2013. Các quy định được coi là bất cập, còn hạn chế đã được sửa đổi, bổ sung. Một trong những điểm mới của luật này là quy định về giảm trừ gia cảnh. Các nhà làm luật đã cố gắng sửa đổi, bổ sung các quy định về giảm trừ gia cảnh theo hướng có lợi cho NNT, hài hòa lợi ích nhà nước và NNT. Quy định là như vậy nhưng có thực hiện được mục đích đó hay không lại phụ thuộc vào việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể liên quan mà chủ yếu là cơ quan thuế và người nộp thuế.
Năm 2013 là giai đoạn chuyển đổi về chính sách, theo đó từ ngày 1/7 các quy định về mức giảm trừ gia cảnh thay đổi. Trên cơ sở đó, kỳ quyết toán thuế 2013 sẽ áp dụng 2 mức giảm trừ gia cảnh tùy vào từng giai đoạn và thực hiện căn cứ vào các văn bản pháp luật cũng rất đặc biệt (những thu nhập phải chịu thuế phát sinh từ ngày 1/7/2013 trở về sau sẽ áp dụng các quy định của Luật Thuế thu nhập cá nhân sửa đổi 2012 để tính; những thu nhập phải chịu thuế thu nhập cá nhân phát sinh trước ngày 1/7/2013 sẽ áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007..)  Do đó, để xem xét về việc tuân thủ pháp luật thuế nói chung và pháp luật về giảm trừ gia cảnh nói riêng, em xin tìm hiểu thực tế tuân thủ pháp luật trong kỳ tính thuế 2013. 
1.Cơ quan thuế.
Kỳ tính thuế năm nay có nhiều chính sách thay đổi về thuế thu nhập cá nhân, đặc biệt là quy định mới về giảm trừ gia cảnh. Chính vì vậy, để áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân trong kỳ tính thuế 2013, Tổng cục thuế đã gửi Công văn 336/TCT-TNCN hướng dẫn quyết toán thuế năm 2013 tới cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Theo đó, Các khoản giảm trừ gia cảnh để xác định thu nhập chịu thuế thực hiện theo hướng dẫn tại khoản 3, mục I, phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính; Điều 2 Thông tư số 62/2009/TT-BTC ngày 27/3/2009 của Bộ Tài chính; khoản 1, Điều 9 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính.
Tổng cục Thuế liên tiếp tổ chức tập huấn nội dung các luật thuế mới đặc biệt là việc  hướng dẫn quyết toán thuế TNCN năm 2013 (đợt 1 từ 18 - 20/2 và đợt 2: từ 25 - 27/2) nhằm trang bị đầy đủ kiến thức mới để đáp ứng yêu cầu công tác quản lý cho Cán bộ, công chức.
Ngay khi Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNCN có hiệu lực thi hành, ngành thuế đã thực hiện ngay việc nâng cấp các ứng dụng tin học nhằm đáp ứng tốt yêu cầu quản lý, nhất là các ứng dụng kê khai, nộp thuế phục vụ kỳ quyết toán thuế TNCN năm 2013. Xác định sẽ có nhiều thay đổi về quy trình, thủ tục kê khai nộp thuế, nên để kịp thời triển khai thông suốt các ứng dụng quản lý thuế mới nhất, Cục Thuế Hà Nội đã thành lập Tổ chỉ đạo tiến hành nâng cấp rất nhiều phần mềm, gói hỗ trợ ứng dụng có liên quan.
Theo đó, hệ thống cơ quan thuế đã chủ động, tích cực tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn pháp luật về thuế; giải thích, cung cấp các thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế cho NNT, đẩy mạnh công tác tổ chức xây dựng và quản lí cơ sở dữ liệu hạ tầng của hệ thống thông tin về NNT.
Tiêu biểu là Cục thuế Hà Nội
Để kỳ quyết toán thuế 2013 được thực hiện chính xác, đầy đủ và kịp thời, Cục Thuế Hà Nội đã chủ động chuẩn bị những điều về kiện cơ sở vật chất và nhân lực nhằm hỗ trợ tốt nhất cho người nộp thuế.
-   Để giúp các tổ chức, cá nhân nộp thuế cập nhật và áp dụng ngay những quy định mới, Cục Thuế TP Hà Nội đã hệ thống hóa lại các nội dung cơ bản nhất của các văn bản đã được điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung và chuyển tải đến người nộp thuế dưới nhiều hình thức. Cục Thuế TP Hà Nội cũng đã soạn thảo nhiều tài liệu giúp NNT tải các file dữ liệu phục vụ cho công tác quyết toán thuế.
- Cán bộ làm việc trực tiếp tại bộ phận một cửa của cơ quan thuế các cấp và cán bộ kiểm tra, tiếp nhận hồ sơ quyết toán thuế cũng được Cục Thuế đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để hướng dẫn, hỗ trợ kịp thời cho NNT.
- Bên cạnh đó, Cục Thuế đã chủ động tuyên truyền trên hệ thống phương tiện truyền thông đại chúng các nội dung có liên quan đến công tác quyết toán thuế để đảm bảo việc thực hiện được chính xác, kịp thời, đồng thời khuyến cáo cá nhân đi nộp thuế sớm, tránh nộp vào những ngày cao điểm có thể phải chờ đợi.
- Về cơ sở vật chất, trong tháng cao điểm (tháng 3) của kỳ quyết toán thuế 2013, ngoài việc bổ sung nhân sự và dựng thêm một nhà khung di động lớn với 18 bàn làm việc đầy đủ trang thiết bị, cơ quan thuế còn bố trí thêm 5 bàn làm việc chuyên để giải đáp vướng mắc cho DN. Tại các chi cục thuế quận, huyện, thị xã, Cục Thuế cũng đã yêu cầu tùy theo điều kiện từng địa bàn, có thể sử dụng ngay trụ sở của mình hoặc đi thuê ở các địa điểm khác với mục tiêu cao nhất là đảm bảo công tác tiếp nhận quyết toán cho người nộp thuế một cách đầy đủ, nhanh chóng
- Trong quá trình thực hiện nếu gặp vướng mắc, NNT có thể liên hệ với cán bộ, phòng quản lý DN trên địa bàn hoặc yêu cầu cơ quan thuế cử cán bộ trực tiếp đến hỗ trợ.
- Để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho NNT, trong tháng 3 cơ quan thuế sẽ làm việc tất cả các ngày thứ 7 trong tuần, riêng ngày chủ nhật 30/3, từ Cục Thuế đến các chi cục thuế sẽ tổ chức làm việc cả ngày để đảm bảo có thể tiếp nhận đầy đủ hồ sơ của NNT.
  Với sự chuẩn bị chu đáo và triển khai đồng bộ các giải pháp thực hiện về cơ bản công tác tiếp nhận quyết toán thuế năm 2013 đã đạt được nhiều tiến bộ vượt trội, đáng kể nhất là lần đầu tiên, số lượng hồ sơ quyết toán được nộp qua mạng Internet tăng đột biến, lên tới 66.334 hồ sơ. Với tỷ lệ chiếm 66,5% số người nộp thuế thuộc diện phải quyết toán thuế TNCN năm 2013. Phương thức này đã giúp Cục Thuế giảm tải rất nhiều số lượng hồ sơ tiếp nhận trực tiếp từ người nộp thuế, đồng nghĩa cả cơ quan thuế và các tổ chức, cá nhân đều tiết kiệm được rất nhiều thời gian, chi phí, sức lực cho việc thực hiện nghĩa vụ với NSNN. Đến hết 31/3, gần 90% người nộp thuế trên địa bàn Thủ đô đã hoàn thành nghĩa vụ nộp quyết toán thuế TNCN năm 2013.
Thông qua các buổi tập huấn, trao đổi, đối thoại với NNT cũng như các hòm thư điện tử, trang web của cơ quan thuế cũng như các phương tiện truyền thông thì nhiều câu hỏi, thắc mắc về việc thực hiên quyết toán thuế TNCN của NNT đã được giải đáp thỏa mãn. Có câu hỏi trực tiếp đến hoàn cảnh, điều kiện của từng cá nhân NNT đã được Cán bộ thuế trả lời chi tiết: Trần Thị Thúy Hằng, 36 tuổi, hangttt@...hỏi: Các năm trước tôi có đăng ký với cơ quan thuế theo mẫu số 16/ĐK-TNCN (ban hành kèm theo Thông tư số 28/2011/TT-BTC ngày 28/2/2011 của Bộ Tài chính) cho hai con ruột và hàng năm đã quyết toán với cơ quan thuế. Tuy nhiên đến tháng 4/2013 tôi chuyển sang đơn vị khác và cơ quan mới đã sót không đăng ký cho tôi. Vậy khi làm quyết toán thuế tôi có được tiếp tục khấu trừ NPT như đã đăng ký với cơ quan thuế hay không? Hồ sơ quyết toán phải bổ sung gì?  Cán bộ thuế Bùi Nam Trung: Theo hướng dẫn tại thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính, trường hợp người nộp thuế thay đổi nơi làm việc thì thực hiện đăng ký và nộp hồ sơ chứng minh NPT như trường hợp đăng ký NPT lần đầu.
Có câu hỏi liên quan đến chính sách thuế mới của kỳ quyết toán năm nay mà nhiều NNT có thể tham khảo như chị Vũ Thi Thanh Nga, 31 tuổi, nhân viên đại lý Thuế  hỏi “NNT phải lưu ý những điểm gì trong quy định mới về giảm trừ gia cảnh trong kỳ quyết toán năm nay”
Đáp:  NNT cần chú ý:
Thứ nhất, Ngày 31/03/2014 là hạn cuối cùng nộp hồ sơ quyết toán thuế TNCN, ngay sau ngày 31/3, cơ quan quản lý sẽ xử phạt ngay đối với các trường hợp vi phạm thay vì cho thêm 4-5 ngày để đôn đốc, nhắc nhở như những năm trước.
 Thứ hai, Người nộp thuế được tính giảm trừ gia cảnh cho NPT nếu NNT đã đăng ký thuế và được cấp mã số thuế.
Thứ ba, theo hướng dẫn của công văn 336/TCT-TNCN thì
(1) Trường hợp người nộp thuế đăng ký giảm trừ NPT sau thời điểm thực tế phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng tại Mẫu số 16/ĐK-TNCN khai “thời điểm tính giảm trừ” đúng với thời điểm thực tế phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng thì khi quyết toán thuế TNCN được tính lại theo thực tế phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng mà không phải đăng ký lại.
(2)Trường hợp người nộp thuế đăng ký giảm trừ NPT sau thời điểm thực tế phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng và tại Mẫu số 16/ĐK-TNCN khai “thời điểm tính giảm trừ” sau thời điểm thực tế phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng, nếu cá nhân thuộc diện phải quyết toán thuế thì khi quyết toán thuế để được tính lại theo thực tế phát sinh, cá nhân đăng ký lại tại Mẫu số 16/ĐK-TNCN ban hành kèm theo Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ Tài chính và gửi kèm theo hồ sơ quyết toán thuế.
(3)Trường hợp người nộp thuế có phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với NPT khác hướng dẫn tại tiết d.4, điểm d, khoản 1 Điều 9 Thông tư số 111/2013/TT-BTC(như: anh, chị, em ruột; ông, bà nội ngoại; cô, dì…) thì thời hạn đăng ký giảm trừ gia cảnh chậm nhất là ngày 31/12/2013, nếu đăng ký giảm trừ gia cảnh quá thời hạn nêu trên người nộp thuế không được giảm trừ gia cảnh đối với NPT đó cho năm 2013.
Tuy nhiên vẫn có những người dân băn khoăn, phàn nàn: phải kể đến trường hợp của chị Hải, kế toán trưởng công ty Thiên Sư Việt Nam-chi nhánh Hà Nội: “năm vừa qua ngành thuế có rất nhiều chính sách thay đổi mà về phía DN, khi đọc các văn bản vẫn còn vướng mắc dù đã được tập huấn. Cá nhân tôi có đặt nhiều câu hỏi đến phòng chính sách của cục thuế Hà Nội, nhưng họ cũng gặp rất nhiều lúng túng khi trả lời các chính sách này”
Chị B - nhân viên kế toán của Tập đoàn Sáng tạo tự nhiên, cho biết mình phải sửa lại thông tin giảm trừ gia cảnh trong hồ sơ quyết toán vì khi tập huấn không được chỉ rõ. Trước đó, chị làm việc tại quận Cầu Giấy thông tin giảm trừ gia cảnh đăng ký ở đây, giờ chuyển sang quận Ba Đình khi tập huấn được hướng dẫn bổ sung ngay thông tin giảm trừ gia cảnh tại nơi mới chuyển đến. Tuy nhiên, cán bộ thuế Ba Đình lại yêu cầu tách ra, không cần bổ sung: “Giờ tôi lại phải về khai lại, tách riêng thông tin giảm trừ tại quận cũ và quận mới. Tập huấn hướng dẫn một cách, khi đi làm thủ tục lại phải làm cách khác làm mất thời gian của người nộp quá”, chị B. băn khoăn.
2.Đối với chủ thể là NNT.
Trong kỳ quyết toán 2013, người nộp thuế đã chủ động tìm hiểu thông tin liên quan việc quyết toán thuế thu nhập cá nhân và đặc biệt quan tâm tới hồ sơ, thủ tục kê khai giảm trừ gia cảnh cho NPT. Để tránh hiện tượng ùn tắc, giải quyết nhanh gọn, tránh nhầm lẫn, sai sót trong khi đi quyết toán thuế TNCN , thêm vào đó là để không bị xử lý vi phạm do thực hiện chậm nghĩa vụ nộp thuế, NNT đã có tâm lý chủ động đi nộp thuế sớm hơn.
Tuy nhiên, dù cơ quan thuế đã nỗ lực tuyên truyền, hỗ trợ, tạo điều kiện tốt nhất cho người nộp thuế quyết toán thuế nhưng trong suốt tháng 1 và tháng 2, bình quân mỗi ngày cơ quan thuế chỉ tiếp nhận 5 - 8 bộ hồ sơ quyết toán; thậm chí đến ngày 24/3 mới tiếp nhận được 25.000 DN hồ sơ, chiếm tỷ trọng 25% số người nộp thuế trong diện phải thực hiện nghĩa vụ, đồng nghĩa trong khoảng thời gian 6 ngày còn lại, cơ quan thuế phải tiếp nhận hồ sơ cho 75% số hồ sơ còn lại. Đến sáng ngày 31/3, người nộp thuế vẫn chưa đến ngay, mà phải sau 15 giờ cùng ngày mới ùn ùn kéo đến nộp quyết toán. Cuối ngày 31/3, trong bối cảnh người đến nộp quyết toán thuế xếp nhiều hàng dài từ nơi tiếp nhận hồ sơ cho đến tận cổng cơ quan (khoảng 50 mét) với ước tính cả nghìn người, trong khi gần 30 bàn tiếp nhận hồ sơ và 5 bàn làm việc được Cục Thuế bố trí thêm để hướng dẫn, giải đáp vướng mắc liên quan cho DN đã làm việc hết công suất. Theo tính toán, trường hợp cơ quan thuế có kéo dài thời gian làm việc đến 24 giờ cùng ngày, cũng không thể tiếp nhận hết hồ sơ do quá tải. Do đó, Cục Thuế Hà Nội mới quyết định không tiếp nhận thêm hồ sơ sau 17 giờ ngày 31/3.
IV. Đánh giá và ý kiến pháp lý của cá nhân.
1.Về việc tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh.
Đánh giá về việc tuân thủ pháp luật của một chủ thể có nghĩa là đánh giá về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ thể đó đến đâu.
(*) Đối với chủ thể là người nộp thuế
Cá nhân NNT tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh là việc cá nhân đó đã kê khai NPT được giảm trừ gia cảnh một cách chính xác, trung thực, nộp hồ sơ đúng thời hạn, chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực về những gì mình đã kê khai. Trong trường hợp có thay đổi (tăng, giảm) về NPT thì cá nhân NNT phải thực hiện khai bổ sung thông tin thay đổi của NPT theo đúng quy định của pháp luật. Người nộp thuế phải cung cấp các thông tin cần thiết khi cơ quan quản lí thuế phát hiện NNT có những vi phạm pháp luật thuế cần kiểm tra, xác minh.
Tuy nhiên, em đã không thể thu thập được thông tin, nắm bắt được các số liệu thực tế về các trường hợp gian luận thuế, khai man về NPT của cá nhân NNT để được giảm trừ gia cảnh, đặc biệt là trong quá trình làm hồ sơ chứng minh NPT liệu có sự gian dối nào không, hay khi có thay đổi về NPT NNT có đi đăng ký lại không? Cho nên, em không thể có đánh giá riêng về việc tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh của người nộp thuế từ tháng 7/2013. Do vậy, thông qua việc tìm hiểu về kỳ quyết toán thuế năm 2013 vừa rồi, em xin đưa ra một số ý kiến đánh giá về việc tuân thủ pháp luật thuế thu nhập của cá nhân người nộp thuế như sau:
Thứ nhất là NNT đã nhận thức được rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với nhà nước, với xã hội. Đó chính là việc người nộp thuế đã tự nguyện, chủ động kê khai thu nhập của mình, tiến hành quyết toán thuế TNCN, trích một phần thu nhập cá nhân nộp cho ngân sách nhà nước.
Thứ hai, trong kỳ quyết toán thuế năm nay với nhiều chính sách về thuế thay đổi đặc biệt là những quy định mới về giảm trừ gia cảnh, NNT đã chủ động quan tâm, tích cực tham gia các buổi tập huấn hướng dẫn quyết toán thuế TNCN năm 2013, đưa ra các câu hỏi, băn khoăn, thắc mắc trong các buổi đối thoại giữa NNT với cơ quan thuế, hay trao đổi trên các diễn đàn để được cung cấp các thông tin cần thiết, đảm bảo thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của chính mình. Bên cạnh đó vẫn có nhiều NNT chủ quan trong quá trình thực hiện đăng ký giảm trừ gia cảnh cho NPT chưa làm đúng qui định dẫn đến khi thực hiện quyết toán thuế thu nhập cá nhân làm tăng số thuế phải nộp không đáng có do không được tính giảm trừ gia cảnh.
Thứ ba là nhiều người nộp thuế đã chủ động tiếp cận với công nghệ thông tin, tiến hành nộp thuế qua mạng internet. Điều này đã giúp giảm tải rất nhiều số lượng hồ sơ tiếp nhận trực tiếp theo phương pháp truyền thống (đến nộp trực tiếp cho cơ quan thuế). Vì vậy, cả cơ quan thuế và các tổ chức, cá nhân đều tiết kiệm được rất nhiều thời gian, chi phí, sức lực cho việc thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.
Thứ tư là đã có một bộ phận NNT đã có tâm lý nộp thuế sớm để tránh hiện tượng ùn tắc không nộp được thuế và có thể bị xử lý vi phạm. Bên cạnh đó thì đại bộ phận NNT vẫn chưa có ý thức đến hạn chót mới đi quyết toán thuế và còn một số người chưa đi quyết toán thuế.
(*)Đối với chủ thể là cơ quan thuế.
Đánh giá sự tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh của cơ quan thuế  phải dựa trên việc cơ quan này có thực hiện đúng thẩm quyền, chức trách của nhà quản lý, cơ quan thu thuế hay không? Rõ ràng, các quy định của pháp luật về giảm trừ gia cảnh chỉ ở trên giấy hay được thực hiện đến đâu là phụ thuộc rất nhiều vào cơ quan thực thi pháp luật – cơ quan thuế. Khi triển khai trên thực tế, các văn bản hướng dẫn sẽ bắt đầu gặp phải những gia cảnh rất khác nhau, vấn đề là xếp vào nhóm nào, có được trừ hay không để tính thuế sao cho công bằng thì sẽ là khó. Do đó, để có hướng hoàn thiện pháp luật đảm bảo sự công bằng – mục tiêu của pháp luật thì việc tìm hiểu, đánh giá về sự tuân thủ pháp luật của cơ quan thuế là rất quan trọng. Để đánh giá được chúng ta phải bám sát vào quyền và trách nhiệm của cơ quan thuế theo quy định của pháp luật. Theo đó có thể đặt ra một số câu hỏi như sau: cơ quan thuế đã thực hiện tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn pháp luật về thuế; đặc biệt là các chính sách thuế mới cho NNT chưa? Mức độ thực hiện đã sâu rộng chưa? Có đảm bảo được mọi cá nhân NNT có thể tiếp cận với nguồn thông tin này không? Cơ quan thuế  có tiến hành giải thích, cung cấp thông tin, hướng dẫn NNT liên quan đến việc kê khai NPT hay không? Cơ quan thuế đã có những biện pháp nào để quản lý, kiểm tra, rà soát, đánh giá mức độ chính xác, trung thực của NNT trong việc kê khai NPT để được giảm trừ gia cảnh? Cán bộ, công chức, nhân viên thuế có thực hiện đúng thẩm quyền không, liệu có sự lạm quyền, sách nhiễu NNT không? Và một số câu hỏi khác liên quan đến tham nhũng, quan liêu.
Trên cơ sở đó và qua việc tìm hiểu các thông tin liên quan đến kỳ quyết toán 2013, em có một số ý kiến đánh giá về việc tuân thủ pháp luật của cơ quan thuế như sau:
Về cơ bản thì cơ quan thuế đã hoàn thành tốt trách nhiệm của mình. Một là cơ quan thuế tích cực tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật về Thuế cho NNT. Hai là hệ thống cơ quan thuế trên khắp cả nước đã chuẩn bị tốt về cả nhân lực lẫn vật chất để thực hiện tốt kỳ quyết toán 2013 vừa qua. Ba là, cán bộ thuế nhiệt tình hướng dẫn, hỗ trợ NNT, tham gia đối thoại với NNT, trả lời những băn khoăn thắc mắc của NNT.
Bên cạnh đó, hiện tượng cán bộ thuế gây khó khăn cho người nộp thuế vẫn xảy ra. Một số cán bộ thuế nắm vẫn chưa chắc các kiến thức liên quan đến chính sách thuế mới, nên có những trường hợp trả lời câu hỏi của dân còn lúng túng hoặc hướng dẫn không chính xác nên khi NNT đi quyết toán thuế không đúng bị cơ quan thu thuế yêu cầu làm lại, tốn kém thời gian, tiền bạc của NNT. Điều này có thể dẫn đến mất lòng tin của NNt với cơ quan thuế.
2.Về những quy định của pháp luật về giảm trừ gia cảnh
Sau khi tìm hiểu về các quy định của pháp luật về giảm trừ gia cảnh, em có một số ý kiến như sau:
Thứ nhất là quy định về mức giảm trừ. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì mức giảm trừ gia cảnh đối với người nộp thuế là 9 triệu đồng/tháng, đối với mỗi NPT là 3,6 triệu đồng/tháng. Với quy định mới này số lượng người nộp thuế sẽ giảm đi đáng kể (3,87 triệu người xuống còn khoảng 1 triệu người), có nhiều ý kiến lo lắng cho rằng mức giảm trừ này sẽ làm sai lệch bản chất của thuế thu nhập cá nhân (chuyển thành thuế thu nhập cao), ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, dựa trên những phân tích đánh giá cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn trong tờ trình của Chính phủ ngày 30/7/2012 khi ấn định mức giảm trừ 9 triệu cho NNT và 3,6 triệu đồng cho mỗi NPT cũng như những ý kiến tranh luận của các chuyên gia, cá nhân em cũng tán thành với mức giảm trừ này. Trong điều kiện kinh tế như hiện nay, mức khới điểm chịu thuế là 9 triệu đồng mới có thể đáp ứng được nhu cầu ăn, mặc, đi lại, học hành, khám chữa bệnh, chi tiêu cho đời sống văn hóa, tinh thần của cá nhân người nộp thuế và NPT.
Thứ hai là quy định đối tượng NPT được giảm trừ gia cảnh (Điểm d, khoản 1, Điều 9 Thông tư 111/2013). Có rất nhiều căn cứ để xác định NPT: độ tuổi, khả năng lao động và thu nhập thực tế của cá nhân. Tuy nhiên điều kiện tiên quyết để xác định NPT là trách nhiệm nuôi dưỡng của đối tượng nộp thuế. Chính những điều kiện phức tạp này mà việc xác định NPT rất khó khăn và mang tính chủ quan của người áp dụng. Do đó, em xin đưa ra một số trường hợp mà theo em là còn bất cập cũng như có thể khó xác định trên thực tế như sau:
- Trường hợp NPT là con từ 18 tuổi trở lên bị khuyết tật, không có khả năng lao động. Đây là đối tượng mà cá nhân người nộp thuế phải dành một khoản thu nhập để chăm sóc, nuôi dưỡng. Theo quy định tại Điều 36 Luật hôn nhân gia đình thì Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Như vậy, nếu người con bị mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động tạo thu nhập để nuôi sống chính bản thân mình thì cha mẹ cũng có trách nhiệm nuôi dưỡng. Tuy nhiên nếu đối chiếu với quy định của luật thuế TNCN hiện hành thì người con đó lại không được xác định là NPT của cha mẹ trong trường hợp này. Theo em, đây là một điểm bất hợp lý, pháp luật về giảm trừ gia cảnh cần bổ sung trường hợp con đã thành niên mà bị mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động là NPT của NNT để đảm bảo tính công bằng và thống nhất giữa các quy định của pháp luật.
- Trường hợp NPT là con đang theo học tại Việt Nam hoặc nước ngoài tại bậc học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, kể cả con từ 18 tuổi đang theo học bậc học phổ thông không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1 triệu đồng. Đây là đối tượng đang đi học, không có thu nhập đảm bảo cuộc sống bản thân, cha mẹ vẫn phải nuôi dưỡng. Tuy nhiên, trong trường hợp cha mẹ già yếu, người nuôi dưỡng, cung cấp tiền cho cá nhân này không phải là cha mẹ mà là anh/chị ruột, cô/dì/chú/bác ruột … thì cá nhân này có được tính là NPT được giảm trừ gia cảnh của anh/chị ruột, cô/dì/chú bác ruột không và nếu có thì xếp vào nhóm nào mà pháp luật đã quy định? Hiện nay, liên quan đến NPT có quan hệ anh/chị/em ruột, cô/dì/chú/bác ruột thì chỉ có quy định tại tiết d4, điểm d, khoản 1 điều 9 Thông tư 111/2013/TT-BTC. Không lẽ phải xếp người đang đi học đại học mà được anh/chị ruột nuôi dưỡng là người không nơi lương tựa theo quy định điều này để được giảm trừ gia cảnh? Tuy nhiên, tại điểm đ thông tư này quy định: cá nhân không nơi nương tựa tính là NPT của NNT (trường hợp cá nhân đó trong độ tuổi lao động) thì phải thỏa mãn đồng thời 2 điều kiện là (1) bị khuyết tật, không có khả năng lao động, (2) không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1 triệu đồng. Do dó, cũng khó có thể xếp cá nhân đang đi học đại học,… mà được anh/chị ruột nuôi dưỡng là cá nhân không nơi nương tựa mà NNT đang trực tiếp nuôi dưỡng là NPT được. Chính vì vậy, pháp luật cần bổ sung trường hợp cá nhân đang theo học đang theo học tại Việt Nam hoặc nước ngoài tại bậc học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, kể cả cá nhân từ 18 tuổi đang theo học bậc học phổ thông không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1 triệu đồng là NPT của người trực tiếp nuôi dưỡng (bố/mẹ, anh/chị/em ruột, ông/bà nội/ngoại, cô/dì/chú/bác ruột).
- Trường hợp NPT được xác định là cá nhân không nơi nương tựa quy định tại d.4.3, tiết d4, điểm d, khoản 1 điều 9 Thông tư 111/2013/TT-BTC: “cháu ruột của người nộp thuế bao gồm: con của anh ruột, chị ruột, em ruột”. Quy định này có nghĩa là cháu của người nộp thuế được xác đinh là NPT được giảm trừ gia cảnh chỉ khi người cháu đó là con ruột của anh/chị/em ruột. Theo quy định của luật hôn nhân gia đình thì trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng (không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con) thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu. Do đó, pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh cần bổ sung thêm trường hợp cá nhân không nơi nương tựa mà NNT đang trực tiếp nuôi dưỡng và thỏa mãn điều kiện quy định tại điểm đ, khoản 1, điều 9 thông tư 111/2013/NĐ-CP là cháu ruột của ông/ bà nội/ngoại.
    3. Biện pháp đảm bảo thực hiện hiệu quả luật thuế thu nhập cá nhân về giảm trừ gia cảnh.
*) Về phía cơ quan quản lý
Th nht, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, giải thích chính sách tăng sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân và của cộng đồng về ý nghĩa, mục tiêu cũng như những nội dung liên quan đến chính sách thuế TNCN về giảm trừ gia cảnh. Theo đó, NNT sẽ nắm bắt được các quy định của pháp luật về giảm trừ gia cảnh, tự giác kê khai giảm trừ gia cảnh đối với NPT một cách chính xác và trung thực.
Th hai, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan cũng như sự phối hợp với chính quyền địa phương trong việc tổ chức thi hành Luật. Theo đó, cơ quan thuế sẽ có sự nắm bắt, quản lý chặt chẽ thông tin gia cảnh người nộp thuế. Đánh giá chính xác đối tượng mà NNT kê khai là NPT, có đúng là đối tượng mà NNT đang có trách nhiệm và trực tiếp nuôi dưỡng hay không và nếu có thì xếp vào nhóm nào, góp phần đảm bảo công bằng và áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật.
Th ba, kịp thời hoàn chỉnh hệ thống văn bản hướng dẫn Luật, tổ chức tập huần cho các đối tượng liên quan trên phạm vi cả nước. Theo đó, việc áp dụng pháp luật sẽ thống nhất và chính xác. Khi có biến động giá cả, Chính phủ cần kịp thời đề xuất thay đổi mức giảm trừ gia cảnh phù hợp với thực trạng nền kinh tế.
Th tư, đẩy mạnh và hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cho công tác quản lý, thu thuế TNCN trên phạm vi cả nước, đẩy mạnh cải cách hành chính trong việc nộp và quyết toán thuế. Việc áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý thuế tạo ra một cơ sở dữ liệu đầy đủ, giúp cơ quan thuế dễ dàng nắm bắt các thông tin, sự thay đổi NPT của NNT. Từ đó có những biện pháp xử lý phù hợp, tránh tình trạng thất thu thuế.
*) Về phía người nộp thuế
Người nộp thuế cần phải nâng cao trách nhiệm của mình với nhà nước, với xã hội; tích cực lao động và làm giàu chính đáng. NNT phát huy tinh thần tự giác, tự nguyện đóng góp, kê khai giảm trừ gia cảnh cho NPT chính xác và trung thực, hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình đối với nhà nước.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét