Hoạt động kiếm sống là hoạt động
quan trọng nhất của thế giới nói chung và con người nói riêng. Hoạt
động kiếm sống của con người được gọi chung là việc làm. Dưới đây
là phần tìm hiểu về khái niệm của việc làm dưới các góc độ cũng
như vai trò ý nghĩa của việc làm đối với mỗi cá nhân cũng như toàn
xã hội.
1. Khái niệm việc làm
Thứ nhất là xét
khái niệm việc làm dưới góc độ kinh tế – xã hội . Trước hết việc
làm là vấn đề của mỗi cá nhân, xuất phát từ nhu cầu mưu sinh của
mỗi cá nhân. Cá nhân có thể tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất lao động và được trả công hoặc tham gia vào các hoạt động mang
tính chất tự tạo việc làm như dùng các tư liệu sản xuất của mình
để sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận hoặc tự làm những công
việc cho hộ gia đình mình. Trên thực tế thì việc làm và thu nhập
không phải là vấn đề mà lúc nào mỗi cá nhân NLĐ cũng có thể quyết
định được. Trong điều kiện dân số tăng quá nhanh, tư liệu sản xuất
tập trung vào một số cá nhân dẫn đến tình trạng càng có nhiều
người không có khả năng tự tạo việc làm. Hệ quả tất yếu là việc
làm và cuộc sống của số đông NLĐ phụ thuộc vào thiểu số những
người nắm tư liệu sản xuất. Vì vậy mỗi cá nhân phải tự huy động
khả năng của bản thân để tự tìm việc cho mình, phải cạnh tranh để
tìm việc. Thêm nữa, tính xã hội cảu việc làm đòi hỏi việc làm đó
phải đáp ứng được các yêu cầu của xã hội và được xã hội thừa nhận.
Như vậy, xét về phương diện kinh tế – xã hội, có thể rút ra hai điểm
chú ý về việc làm : việc làm phải tạo ra thu nhập để nuôi sống bản
thân người lao động và gia đình của họ ở mức tối thiểu trở lên; việc
làm tuy là hoạt động của cá nhân nhưng luôn gắn với xã hội.
Thứ hai, dưới góc
độ kinh tế lao động thì người ta quan niệm rằng việc làm là sự kết
hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất nhằm tạo ra những sản
phẩm phục vụ chính bản thân mình hoặc trao đổi trên thị trường làm
xuất hiện lợi nhuận và đó cũng chính là nguồn thu nhập của người
lao động.
Thứ ba, xét về góc
độ pháp lí, Điều 13 BLLĐ đã quy định “Mọi
hoạt động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được
thừa nhận là việc làm.”. Khái niệm này đã kế thừa và phát
triển đầy đủ những quan niệm trước đây về việc làm. Nó không chỉ
phản ánh được nội dung kinh tế xã hội của việc làm là các hoạt
động mang lại thu nhập cho NLĐ mà còn phản ánh được tính chất pháp
lí của việc làm, đó là hoạt động lao động pháp luật không cấm. Như
vậy có thể khẳng định dưới góc độ pháp lí, việc làm được cấu
thành bởi ba yếu tố:
- Là
hoạt động lao động. Đây là hoạt động thể hiện sự tác động của sức
lao động vào tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Yếu
tố lao động trong việc làm khác với các hoạt động thông thường ở
chỗ nó phải có tính hệ thống, tinh thường xuyên và tính nghề
nghiệp.
- Tạo
ra thu nhập : Thu nhập bao gồm cả khoản thu nhập trực tiếp và khả
năng tạo ra thu nhập.
- Hoạt
động đó không bị pháp luật cấm. Hoạt động lao động tạo ra thu nhập
nhưng phải được pháp luật thừa nhận hay không bị pháp luật cấm mới
được coi là việc làm. Ví dụ như hoạt động buôn bán ma túy không thể
được coi là việc làm, là một hoạt động có tạo ra thu nhập nhưng lại
là hoạt động bị pháp luật cấm. Dấu hiệu này thể hiện đặc trưng
pháp lí của việc làm.
2. Vai trò, ý nghĩa của việc làm.
Đầu tiên là vai trò,
ý nghĩa của việc làm trên bình diện kinh tế- xã hội. Đối với NLĐ
thì việc làm tạo ra thu nhập cho NLĐ để đảm bảo cuộc sống của bản
thân, gia đình, đóng góp cho sự phát triển của cộng đồng xã hội,
đồng thời tạo ra tâm lí yên tâm phấn khởi cho người lao động tham gia
sản xuất, phát huy được tinh thần chủ động, tích cực sáng tạo. Bởi
vì việc làm không chỉ là nguồn thu nhập mà còn là điều kiện để
phát triển và hoàn thiện nhân cách con người.
Về mặt kinh tế,
việc làm luôn gắn liền với vấn đề sản xuất. Hiệu quả của việc
giải quyết tốt vấn đề việc làm chính là hiệu quả của sản xuất. Giải
quyết tốt vấn đề việc làm thì sản xuất phát triển, kinh tế tăng
trưởng. Đồng thời kinh tế tăng trưởng cũng sẽ tạo điều kiện giải
quyết tốt vấn đề việc làm.
Về mặt xã hội, bảo
đảm việc làm chính là chính sách xã hội có hiệu quả to lớn trong
vấn đề phòng, chống, hạn chế các tiêu cực xã hội, giữ vững kỉ
cương, nề nếp xã hội. Nếu không có việc làm, không có thu nhập, tỉ
lệ thất nghiệp gia tăng sẽ nảy sinh tệ nạn xã hội. Theo số liệu
thống kê cho thấy 80% các tệ nạn xã hội ở Việt Nam như trộm cắp, cờ
bạc, mại dâm, nghiện ma túy...có nguyên nhân chính là không có việc
làm.
Thứ hai, việc làm
còn là vấn đề mang ý nghĩa chính trị – pháp lí. Chính sách việc
làm không phù hợp tất yếu sẽ không hiệu quả đối với vấn đề lao
động- việc làm nói riêng và các vấn đề xã hội nói chung. Hậu quả
là sự gia tăng nạn thất nghiệp, trầm trọng hơn là nạn đói nghèo, và
tình trạng mất ổn định xã hội. Chính vì vậy, ở bất kì quốc gia
nào, việc làm luôn là vấn đề gay cấn, nhạy cảm, là vấn đề xã hội
vừa gay cấn vừa cấp bách mà nếu không giải quyết tốt có thể trở
thành “điểm nóng” và trở thành vấn đề chính trị. Điều này lí giải
tại sao các quốc gia luôn dành sự quan tâm đặc biệt tới vấn đề giải
quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp.
Trên bình diện pháp
lí, việc làm là phạm trù thuộc quyền cơ bản của con người. Tại
Điều 3- Tuyên bố về quyền con người năm 1948 đã ghi nhận: “Mọi người đều có quyền làm việc,
tự do chọn nghề, được có những điều kiện làm việc thuận lợi và
chính đáng, được bảo vệ chống lại thất nghiệp”. Ngoài ra quyền
lao động còn được cụ thể hóa tại điều 6- Công ước về các quyền kinh
tế, văn hóa xã hội ngày 16/12/1966 của Liên Hợp Quốc và liên quan đến
nó còn có trong nhiều văn bản pháp lí quốc gia và quốc tế. Bên cạnh
đó, việc làm luôn gắn với chế độ lao động. Trong đó quan hệ việc
làm được coi là “tiền quan hệ lao động”, đóng vai trò quyết định cho
việc hình thành, duy trì và là nội dung quan hệ lao động. Nghĩa là
không có một việc làm cụ thể thì sẽ không có HĐLĐ, không có quan hệ
lao động nào cả.
Thứ ba, ý nghĩa của
việc làm trên bình diện quốc gia-quốc tế. Thực tế cho thấy, quốc gia
nào giải quyết tốt vấn đề việc làm thì sẽ thúc đẩy nền kinh tế
của quốc gai đó phát triển, xã hội ổn định và kéo theo sự phát
triển mọi mặt của xã hội. Do vậy nghiên cứu vấn đề việc làm là
hết sức cần thiết với mỗi quốc gia. Trong thời đại ngày nay khi vấn
đề việc làm không còn dừng lại ở phạm vi quốc gia mà nó còn có
tính toàn cầu hóa, tính quốc tế sâu sắc. Hình thức xuất khẩu lao
động hiện nay chính là hình thức nhằm giải quyết việc làm cho NLĐ
trên thế giới, trong đó có sự dịch chuyển giữa cung và cầu lao động
giữa các quốc gia, các khu vực. Đây chính là cách thức giải quyết
việc làm có hiệu quả mang tính chất quốc tế. Và trong thị
trường đó, cạnh tranh không chỉ còn
là vấn đề giữa những NLĐ mà còn trở thành vấn đề giữa các quốc
gia.
XEM THÊM: THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét