Thực
hiện chủ trương, chính sách đổi mới nền giáo dục của Đảng và Nhà Nước, coi giáo
dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu, các trường đại học công lập giữ vững vai
trò nòng cốt trong hệ thống giái dục quốc dân. Với xu thế phát triển mạnh nền
kinh tế tri thức trên thế giới, trước sự cạnh tranh của các cơ sở giáo dục đại
học khác trong, ngoài nước và thực hiện cơ chế tự chủ tài chính buộc các trường
đại học công lập Việt Nam phải nghiên cứu xây dựng, điều chỉnh hoạt động giáo dục
một cách hiệu quả đẻ thực hiện sứ mạng được giao. Xuất phát từ thực tiễn như vậy,
nhóm em xin lựa chọn đề tài: “ Tìm hiểu
chế độ tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu là đại học công lập và so sánh với
chế độ tài chính của đại học dân lập – những nhận xét đánh giá của nhóm nghiên
cứu” làm chủ đề cho bài tập nhóm lần này.
Đơn vị sự
nghiệp là những tổ chức được thành lập để thực hiện các hoạt động sự nghiệp, những
hoạt động này nhằm duy trì, bảo đảm sự hoạt động bình thường của xã hội, mang
tính chất phục vụ là chủ yếu, không vì mục tiêu lợi nhuận. Những đơn vị sự nghiệp
trong quá trình làm được phép thu phí để bù đắp một phần hay toàn bộ chi phí được
gọi là đơn vị sự nghiệp có thu.
Đơn
vị sự nghiệp có thu được xác định dựa trên các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thành lập mà trong đó chủ yếu là do cơ quan hành chính nhà nước thành lập.
Căn cứ vào vị trí và phạm vi hoạt động mà đơn vị sự nghiệp có thu là có thể do
Thủ tướng Chính phủ hay Bộ trưởng Bộ quản lý nghành hay Chủ tịch Ủy ban nhân
dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương trực tiếp ra quyết định thành lập.
Thứ hai, Được Nhà nước cấp kinh phí và
tài sản để hoạt động, thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn. Trong quá trính
hoạt động được nhà nước cho phép thu một số khoản thu nhất định để bù đắp một
phần hoặc toàn bộ chi phí hoạt động, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức và bổ
sung tái tạo chi phí hoạt động thường xuyên của đơn vị.
Thứ ba, nhằm cung cấp dịch vụ công cho
xã hội (thực hiện hoạt động sự nghiệp được Nhà nước ủy quyền) không nằm mục
đích sinh lợi. Dịch vụ công là những hoạt động vì lợi ích chung. Dịch vụ công
có những dấu hiệu cơ bản sau:
+ Là những hoạt động phục vụ lợi ích tối thiểu cần thiết
cho xã hội, đảm bảo các quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người, đảm bảo cuộc sống
bình thường và an toàn.
+ Những hoạt động này về cơ bản do các tổ chức được Nhà
nước ủy quyền đứng ra thực hiện, song Nhà nước vẫn chịu trách nhiệm cuối cùng về
những hoạt động này.
+ Là những hoạt động theo pháp luật công nên mọi đối tượng
hưởng thụ đều có điều kiện và khả năng như nhau, không phân biệt hoàn cảnh cụ
thể về xã hội, chính trị hay kinh tế.
+ Về nguyên tắc dịch vụ công không phải là dịch vụ thương
mại, do đó không tồn tại trong môi trường cạnh tranh, việc trao đổi dịch vụ
không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ.
Thứ tư, có tư cách pháp nhân, có con dấu
và tài sản riêng. Tức là đơn vị sự nghiệp có thu phải đáp ứng đủ 4 tiêu chí:
+ Được cơ quan có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập,
đăng ký hay công nhận;
+ Có cơ cấu tổ chức quản lý chặc chẽ;
+ Có tài sản độc lập đối với tổ chức, cá nhân khác và tự
chịu trách nhiệm bằng các tài sản đó;
+ Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách
độc lập.
XEM THÊM: ĐĂNG KÍ HỘ KINH DOANH
Các trường
Đại học công lập (ĐHCL) vừa mang đặc điểm của đơn vị sự nghiệp có thu, vừa mang
đặc trưng riêng về lĩnh vực hoạt động giáo dục đào tạo.
Trường
ĐHCL hoạt động không nhằm mục tiêu lợi nhuận mà hướng về phục vụ lợi ích cộng đồng
và xã hội. Các đơn vị này có trách nhiệm đào tạo và nghiên cứu khoa học, đào tạo
và bồi dưỡng đội ngũ trí thức, đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật có trình độ
chuyên môn giỏi đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước.
Trường ĐHCL do nhà nước đầu tư xây dựng, cung cấp trang thiết bị dạy học, bố
trí cán bộ quản lý và đội ngũ nhà giáo giảng dạy và nhà nước thống nhất quản lý
về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo,
qui chế thi cử và hệ thống văn bằng. Kinh phí hoạt động thường xuyên của trường
ĐHCL chủ yếu do NSNN cấp, bên cạnh đó, trường có thêm kinh phí từ nguồn thu học
phí, lệ phí và thu khác được giữ lại để đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên của
trường. Các trường ĐHCL là các đơn vị sự nghiệp có thu tự bảo đảm một phần hay
toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên. Các trường ĐHCL được quyền chủ động
trong công tác đào tạo như : xây dựng đề cương, giáo trình môn học, kế hoạch giảng
dạy và học tập đối với các ngành nghề được phép đào tạo; tổ chức tuyển sinh
theo chỉ tiêu của Bộ GD & ĐT, thực hiện tổ chức đào tạo, công nhận tốt nghiệp
và cấp văn bằng theo thẩm quyền. Cũng như đơn vị sự nghiệp, trường ĐHCL là đơn
vị sự nghiệp công lập có thu được nhà nước trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính. Việc trao quyền tự chủ cho các trường
ĐHCL nhằm giúp các trường chủ động trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
Tài
chính là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các
nguồn tài chính bằng việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu
tích lũy và tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội. Tài chính trong các trường
đại học là phản ánh các khoản thu, chi bằng tiền của các quỹ tiền tệ trong các
trường đại học. Xét về hình thức nó phản ánh sự vận động và chuyển hóa của các
nguồn lực tài chính trong quá trình sử dụng các quỹ bằng tiền. Xét về bản chất
nó là những mối quan hệ tài chính biểu hiện dưới hình thức giá trị phát sinh
trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ bằng tiền nhằm phục vụ cho sự
nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.
Chế độ
tài chính của các Trường đại học công lập là những quy định của pháp luật về
quá trình tạo lập, phân phối, sử dụng các quỹ và nguồn vốn tiền tệ, gắn liền với
việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ và hoạt động của đơn vị.
Theo quy
định tại Điều 14 Nghị định 43/2006/NĐ-CP và khoản 1 mục VIII Thông tư số
71/2006/TT-BTC thì nguồn tài chính của DHCL bao gồm các khoản sau:
Nguồn
ngân sách nhà nước cấp, gồm:
- Kinh phí bảo đảm hoạt động thường xuyên thực hiện chức
năng, nhiệm vụ đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động;
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ;
- Kinh phí thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ,
viên chức;
- Kinh phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia;
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đặt hàng (điều tra, quy hoạch, khảo sát, nhiệm vụ khác);
- Kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm
quyền giao;
- Kinh phí thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo
chế độ do nhà nước quy định (nếu có); - Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí
mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố định phục vụ hoạt động sự nghiệp
theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong phạm vi dự toán được giao
hàng năm;
- Vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài
được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
- Kinh phí khác (nếu có)
Nguồn
thu từ hoạt động sự nghiệp, gồm:
- Phần được để lại từ số thu phí, lệ phí thuộc
NSNN theo quy định của pháp luật;
- Thu từ các hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực
chuyên môn và khả năng của đơn vị;
- Thu từ hoạt động sự nghiệp khác (nếu có);
- Lãi được chia từ các hoạt động liên doanh, liên kết,
lãi tiền gửi ngân hàng.
Nguồn
thu khác:
- Thu từ các dự án viện trợ, quà biếu, quà tặng.
- Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng, vốn huy động của
cán bộ, viên chức trong đơn vị.
- Nguồn vốn liên doanh, liên kết của các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Theo Điều
16 nghị định 43/2006 NĐ – CP đơn vị sự nghiệp :“có quyền quyết định một số mức thu cụ thể cho phù hợp với từng loại hoạt
động, từng đối tượng”. Như vậy theo tinh thần của luật các trường đại học
công lập được quyền tự quyết một số mức thu cụ thể nhưng vẫn phải tuân thủ
nghiêm khắc các quy định về phí, lệ phí, và không được vượt quá mức khung thu
mà nhà nước đã quy định. Tính tự chủ còn được thể hiện trong việc nhà nước cho
các trường tự quyết định các khoản thu, mức thu đối với những hoạt động dịch vụ
theo hợp đồng với các cá nhân, tổ chức khác trong và ngoài nước, các hoạt động
liên doanh liên kết theo nguyên tắc đảm bảo đủ bù đắp chi phí và có tích lũy.
Quy định này một mặt thể hiện mối quan hệ phụ thuộc của đại học công lập với
nhà nước, nó là một bộ phận thuộc sự quản lí của các cơ quan nhà nước, có nhiệm
vụ giúp cơ quan nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình vì vậy đối với dịch vụ
được cơ quan nhà nước đặt hàng thì mức thu theo đơn giá do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quy định là hợp lí. Mặt khác thể hiện quyền tự chủ trong khuôn khổ của
các đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên điều này trên thực tế đôi khi tạo nên
những gò bó nhất định.Ví dụ, một trường học bên cạnh việc được tự do thỏa thuận
mức thu trong các hợp đồng giảng dạy, nghiên cứu, đào tạo… thì không được phép
thoát li những quy định về khung học phí. Cụ thể mức học phí của các trường đại
học công lập ngành luật hiện nay là 550 nghìnđồng/1 tháng/ 1 sinh viên ( theo
Nghị định Số: 49/2010/NĐ-CP Quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi
phí học tập và cơ chế thu,sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống
giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014-2015), nếu muốn tăng
chất lượng giảng dạy, điều kiện cơ sở vật chất ... thì buộc các trường phải
nâng cao mức học phí để giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, nhưng muốn tăng
thì lại không được vượt quá khung mức đã định, lại phải chờ cơ quan thẩm quyền
bàn bạc quyết định thay đổi khung mức cũ, điều này làm giảm tính linh hoạt và
nhu cầu không ngừng thay đổi của thực tế khách quan.
Trong những
năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Tuy nhiên, trong điều
kiện kinh tế của đất nước còn gập nhiều khó khăn, đầu tư NSNN cho giáo dục còn
hạn chế. Do đó để tăng cường nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục, ngoài nguồn đầu
tư từ NSNN thì chính phủ có chủ trương thực hiện xã hội hóa giáo dục như tăng
các khoản đóng góp từ người học bao gồm học phí, lệ phí và khuyến khích các khoản
đóng góp từ cộng đồng để phát triển giáo dục. Ngoài ra, nhà nước khuyến khích
các trường ĐHCL tăng cường nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ của trường như
tăng thu từ dự án liên kết đào tạo, hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ, khai
thác cơ sở vật chất, các hợp đồng nghiên cứu khoa học và công nghệ.
Cơ cấu thu và tổng số thu của các trường Đại
học công lập
Đơn vị:
triệu đồng
TÊN
ĐƠN VỊ, CHỈ TIÊU
|
Năm
2007
|
Tỷ
lệ
%
|
Năm
2008
|
Tỷ
lệ
%
|
Năm
2009
|
Tỷ
lệ
%
|
TRƯỜNG
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
|
171,076
|
100
|
181,486
|
100
|
194,006
|
100
|
Thu ngân sách nhà nước
|
74,288
|
43
|
56,369
|
31
|
58,710
|
30
|
Thu học phí, lệ phí
|
76,403
|
45
|
93,686
|
52
|
103,435
|
53
|
Thu kinh phí viện trợ
|
|
|
3,592
|
2
|
1,652
|
1
|
Thu sự nghiệp khác
|
20,385
|
12
|
27,839
|
15
|
30,209
|
16
|
TRƯỜNG
ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
|
90,374
|
100
|
115,451
|
100
|
121,008
|
100
|
Thu ngân sách nhà nước
|
50,367
|
56
|
53,781
|
47
|
52,678
|
|
Thu học phí, lệ phí
|
35,897
|
40
|
52,670
|
46
|
63,910
|
53
|
Thu kinh phí viện trợ
|
|
|
4,865
|
4
|
|
|
Thu sự nghiệp khác
|
4,110
|
5
|
4,135
|
4
|
4,420
|
4
|
ĐẠI
HỌC KIẾN TRÚC TP.HCM
|
44,954
|
100
|
52,443
|
100
|
64,302
|
100
|
Thu ngân sách nhà nước
|
14,384
|
32
|
16,013
|
31
|
15,711
|
24
|
Thu học phí, lệ phí
|
25,388
|
56
|
24,514
|
48
|
41,673
|
65
|
Thu kinh phí viện trợ
|
|
|
|
|
|
|
Thu sự nghiệp khác
|
5,182
|
12
|
10,916
|
21
|
6,918
|
11
|
Qua số
liệu tại bảng cho thấy nguồn thu của các
trường ĐHCL đều tăng qua 3 năm, các trường đều có nguồn thu năm sau cao hơn năm
trước. Trong đó, các trường ĐHCL tự chủ một phần kinh phí hoạt động thường
xuyên thì nguồn thu chiếm tỷ lệ cao trong tổng thu chủ yếu từ NSNN cấp dao động
khoảng từ 24% đến 56% và thu từ học phí, lệ phí từ người học dao động từ 40% đến
66% tuỳ trường, còn các trường ĐHCL tự chủ toàn bộ kinh phí hoạt động thường
xuyên thì nguồn thu NSNN rất ít chủ yếu thu học phí và lệ phí từ người học chiếm
trên 84% trong tổng thu. Như vậy, trong cơ cấu nguồn thu, ta thấy thu NSNN cấp
có sự bất bình đẳng giữa hai nhóm trường tự chủ một phần và tự chủ hoàn toàn.
Ngoài ra, ta thấy kinh phí NSNN cấp cho các trường đặc biệt các trường tự chủ một
phần qua 3 năm có xu hướng không đổi, một vài trường còn có xu hướng giảm. Như
vậy, có thể thấy các trường ĐHCL ngày càng dựa vào nguồn thu học phí và lệ phí
là chủ yếu để đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên. Mặc khác, trong bối cảnh
nhà nước khống chế chỉ tiêu đào tạo và mức trần thu học phí đối với các trường
ĐHCL thì việc dựa vào nguồn thu học phí để đảm bảo kinh phí hoạt động thường
xuyên ngày càng khó khăn, điều này đặc biệt khó khăn đối với các trường tự chủ
hoàn toàn về kinh phí hoạt động.
Theo quy
định tại Điều 14 Nghị định 43/2006/NĐ-CP Quản lý sử dụng các nguồn lực tài
chính của các trường ĐHCL bao gồm : quản lý chi hoạt động thường xuyên, chi
không thường xuyên và chi khác.
Chi hoạt động thường xuyên:
Kinh phí
chi hoạt động thường xuyên bao gồm NSNN cấp chi hoạt động thường xuyên, thực hiện
nhiệm vụ do nhà nước đặt hàng và nguồn thu sự nghiệp của đơn vị để chi theo chức
năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao gồm :
- Chi cho con người : tiền lương, tiền công, các khoản phụ
cấp lương, tiền thưởng, phúc lợi tập thể và các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội.
Đây là khoản chi bù đắp hao phí lao động, đảm bảo quá trình tái sản xuất sức
lao động cho giảng viên, cán bộ viên chức của đơn vị. Khoản chi này thường chiếm
tỷ trọng cao trong tổng chi của các trường.
- Chi nghiệp vụ chuyên môn : chi thanh toán dịch vụ công
cộng, vật tư văn phòng, chi hội nghị, chi đoàn ra, đoàn vào, chi mua giáo
trình, tài liệu, hóa chất, mẫu vật phục vụ thí nghiệm …tùy theo nhu cầu thực tế
của các trường. Khoản chi này nhằm đáp ứng các phương tiện phục vụ việc giảng dạy,
giúp cho giảng viên truyền đạt kiến thức một cách hiệu quả.
- Chi mua sắm sửa chữa : các khoản chi mua sắm trang thiết
bị, chi cho việc sửa chữa, nâng cấp trường, lớp, bàn ghế, trang thiết bị học cụ
trong lớp nhằm đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất cho việc giảng dạy và học tập.
- Chi thường xuyên khác.
Chi
không thường xuyên:
- Chi thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
- Chi thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ,
viên chức.
- Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia.
- Chi thực hiện các nhiệm vụ do nhà nước đặt hàng (điều
tra, quy hoạch, khảo sát, nhiệm vụ khác) theo giá hoặc khung giá do nhà nước
quy định.
- Chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước
ngoài theo quy định.
- Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm
quyền giao.
- Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước
quy định (nếu có).
- Chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, sửa
chữa lớn tài sản cố định thực hiện các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Chi cho các hoạt động liên doanh, liên kết.
- Các khoản chi khác theo quy định (nếu có).
Chi
khác:
Các khoản
chi từ các dự án tài trợ, viện trợ của các hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh
vực đào tạo, nghiên cứu khoa học, chi từ nguồn tài trợ học bổng sinh viên, quà
biếu tặng… Các khoản chi trên được quản lý và sử dụng riêng theo nội dung chi
tiết đã thỏa thuận với nhà tài trợ và thực hiện quyết toán theo quy định của
nhà nước.
Theo Điều 17 Nghị định 43/2006/NĐ – CP các trường đại học công lập được
quyền quyết định một số mức chi phí quản lí, hoạt động nghiệp vụ cao hơn hoặc
thấp hơn mức chi phí do cơ quan có thẩm quyền quyết định, quyết định khoản chi
phí phát sinh từng bộ phận, đơn vị trực thuộc và những thẩm quyền này về thủ
trưởng đơn vị. Quy định này tạo nên sự chủ động của đơn vị đối với những yêu cầu
phát sinh ngoài dự đoán của những quy định có sẵn, đảm bảo sự phù hợp với tình
hình thực tiễn để cuối cùng đơn vị đạt được những hiệu quả cao nhất trong hoạt
động của mình. Tuy nhiên việc trao toàn bộ quyền cho thủ trưởng đơn vị rất dễ dẫn
đến tình trạng quan liêu, lạm quyền tham ô của công vì hiện nay Luật chỉ quy định
quyền hạn và trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị mà không quy định một cơ chế
giám sát nào cụ thể.
Để thực hiện quyền tự chủ về chi pháp luật quy định các đơn vị sự nghiệp
có thu phải xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ. Theo thông tư số 50/2003 TT – BTC
ngày 22/5/2003 cảu bộ tài chính hướng dẫn
các đơn vị sự nghiệp có thu xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ thì quy chế này “
phải được thảo luận một cách rộng rãi, dân chủ, công khai, có ý kiến tham gia của
công đoàn cơ sở”. Đây chính là căn cứ để các cơ quan nhà nước cấp trên của đơn
vị quản lí về mặt tài chính và để kho bạc Nhà nước nơi đơn vị mở tài khoản giao
dịch thực hiện việc kiểm soát chi.
Vấn đề tiền lương và thu nhập tăng thêm cho người lao động trong các đơn
vị sự nghiệp có thu là các trường đại học công lập trước đây cũng đã được tự chủ
nhưng vẫn bị hạn chế trong việc quyết định mức thu nhập trả cho người lao động
( Điều 11, 12 Nghị định 10/2002/ NĐ – CP vẫn có những quy định khống chế mức trần
tiền lương). Nghị định 43/2006/ NĐ – CP ra đời đã giải quyết hạn chế này. Theo
đó thì nếu những người làm trong trường là cán bộ, viên chức thực hiện chức
năng, nhiệm vụ nhà nước giao thì tính theo lương cấp bậc, chức vụ do nhà nước
quy định còn tiền lương của cán bộ, nhân viên hoạt động dịch vụ nếu hạch toán
riêng chi phí thì tính tiền lương theo chế độ tiền lương heo doanh nghiệp nhà
nước. Trong vấn đề chi trả thu nhập thêm cho người lao động các đơn vị hoàn
toàn có quyền chủ động phân phối phần chênh lệch thu – chi nhằm tăng thu nhập
cho các thành viên trong đơn vị sau khi đã thực hiện việc bổ sung vào quỹ phát triển
hoạt động sự nghiệp tối thiểu 25% chênh lệch thu chi.
Việc quản
lý sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nguồn lực tài chính đối với các trường ĐHCL rất
quan trọng, với nguồn thu thì hạn hẹp nhưng nhu cầu chi tiêu thì rất lớn. Nguồn
thu từ NSNN cấp chi thường xuyên có xu hướng giảm và thu từ phí, lệ phí có tăng
nhưng không đáng kể trong khi các khoản chi như tiền lương, bảo hiểm xã hội, dịch
vụ công cộng, vật tư văn phòng, chi nghiệp vụ chuyên môn và các khoản chi phí
khác đều tăng đáng kể cho nên việc cân đối thu chi theo đúng định mức, tiêu chuẩn,
chế độ là việc rất quan trọng và cần thiết. Đặc biệt đối với các trường ĐHCL tự
chủ hoàn toàn tài chính khi mà nguồn thu chủ yếu dựa vào học phí, lệ phí thì việc
quản lý sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính là yêu cầu thường xuyên và cấp
bách của nhà trường.
Cơ cấu chi và tổng chi một số trường đại học
công lập
Đơn vị: triệu đồng
TÊN
ĐƠN VỊ, CHỈ TIÊU
|
Năm
2007
|
Tỷ
lệ
%
|
Năm
2008
|
Tỷ
lệ
%
|
Năm
2009
|
Tỷ
lệ
%
|
TRƯỜNG
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
|
158,182
|
100
|
169,515
|
100
|
172,315
|
100
|
Chi thường xuyên
|
136,430
|
86
|
152,113
|
90
|
159,773
|
93
|
Chi không thường xuyên
|
20,868
|
13
|
14,143
|
8
|
11,441
|
7
|
Chi khác
|
884
|
1
|
3,259
|
2
|
1,101
|
1
|
TRƯỜNG
ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
|
95,715
|
100
|
123,709
|
100
|
117,912
|
100
|
Chi thường xuyên
|
88,562
|
93
|
102,739
|
83
|
106,202
|
90
|
Chi không thường xuyên
|
7,153
|
7
|
16,605
|
13
|
11,710
|
10
|
Chi khác
|
|
|
4,365
|
4
|
|
|
ĐẠI
HỌC KIẾN TRÚC TP.HCM
|
40,408
|
100
|
8,654
|
100
|
53,244
|
100
|
Chi thường xuyên
|
38,494
|
95
|
45,154
|
93
|
51,233
|
96
|
Chi không thường xuyên
|
1,914
|
5
|
3,500
|
7
|
2,011
|
4
|
Chi khác
|
|
|
|
|
|
|
Nhìn vào
cơ cấu chi của các trường ĐHCL ta thấy tổng chi các trường đều tăng qua 3 năm
trong đó chi thường xuyên tăng nhanh và chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi. Các khoản
chi khác như chi tài trợ, viện trợ, quà biếu tăng của các tổ chức trong và
ngoài nước chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng chi và có trường hầu như không phát
sinh.
Chi
thường xuyên: Chi hoạt động thường xuyên chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng chi
của các trường ĐHCL. Đối với các trường đại học tự chủ một phần kinh phí hoạt động
thì nguồn kinh phí chi thường xuyên chủ yếu từ nguồn NSNN cấp chi thường xuyên
và nguồn thu học phí, lệ phí để lại còn đối với các trường đại học tự chủ hoàn
toàn thì nguồn kinh phí chủ yếu chi hoạt động thường xuyên từ nguồn thu hoạt động
sự nghiệp như học phí, lệ phí của người học.
- Chi
con người: Khoản chi trên chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi thường xuyên, đối với
các trường tự chủ một phần kinh phí hoạt động chi thanh toán cá nhân chiếm tỷ lệ
bình quân 45% trong tổng chi thường xuyên, còn các trường tự chủ hoàn toàn thì
tỷ lệ này là 42%. Khoản chi thanh toán cá nhân có xu hướng tăng do nhà nước thực
hiện điều chỉnh tăng lương và yêu cầu nâng cao thu nhập nhằm cải thiện cuộc sống
của cán bộ viên chức. Trong những năm qua các trường ĐHCL cũng đã có nhiều cố gắng
trong việc nâng cao thu nhập cho cán bộ viên chức, tuy nhiên do nguồn thu hạn
chế các trường đã cố gắng nhưng mới chỉ đảm bảo mức lương tăng thêm theo quy định
tăng lương tối thiểu của nhà nước. Như vậy, tiền lương của cán bộ viên chức, đặc
biệt là giảng viên các trường hiện vẫn còn rất thấp do đó yêu cầu cấp bách đòi
hỏi các trường phải có kế hoạch, chính sách trả lương hợp lý để khuyến khích
cán bộ viên chức đặc biệt là giảng viên cơ hữu yên tâm công tác có như thế mới
đảm bảo được chất lượng đào tạo.
- Chi nhiệm
vụ, chuyên môn: Tại các trường chi cho nghiệp vụ chuyên môn chiếm tỷ lệ cao
trong tổng chi thường xuyên và có xu hướng tăng lên. Cụ thể, tỷ lệ chi nghiệp vụ
chuyên môn chiếm trong tổng chi thường xuyên của trường Đại học Bách khoa từ
33% năm 2007 tăng lên 35% năm 2009; Trường Đại học Khoa học Tự nhiên từ 37% năm
2007 tăng nhẹ lên 39% năm 2009. Chi cho nghiệp vụ chuyên môn tuy có tăng nhưng
chưa có những chuyển biến đáng kể. Thực tế kinh phí chi cho giáo trình, tài liệu,
dụng cụ học tập, vật liệu, hoá chất phục vụ thí nghiệm và các trang thiết bị phục
vụ giảng dạy còn hạn hẹp. Vì vậy, tình trạng chung là học chay, dạy chay vẫn diễn
ra dẫn đến chất lượng đào tạo không được cải thiện. Việc chi trả thù lao vượt
giờ, chi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ…cũng còn nhiều bất cập, chưa tương xứng với
công sức của giảng viên, do đó không tạo động lực để họ dành thời gian nâng cao
trình độ và nâng cao chất lượng giảng dạy.
- Chi
cho mua sắm sửa chữa: Chi mua sắm, sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định, nâng cấp
trường lớp, bàn ghế, trang thiết bị trong lớp học thay thế các trang thiết bị
cũ và trang bị thêm các phòng học, phòng thí nghiệm, phòng máy vi tính, thư viện
…nhằm đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy và học tập.
Theo kế hoạch khoảng chi mua sắm sữa chữa chiếm khoảng 10% trong tổng chi. Chi
mua sắm sửa chữa có xu hướng giảm trong những năm gần đây do các trường sử dụng
quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp để chi cho hoạt động mua sắm nên không quyết
toán vào kinh phí chi thường xuyên. Các khoản chi mua sắm, sữa chữa cơ sở vật
chất tuy đã được các trường quan tâm, chú trọng nhưng vẫn chưa đáp ứng được sự
gia tăng về quy mô đào tạo, đặc biệt là hệ đào tạo không chính quy.
- Chi
khác: Các khoản chi hoạt động thường xuyên không hạch toán vào các khoản chi
trên được hạch toán vào khoản chi khác, khoản chi thường xuyên khác chiếm tỷ lệ
bình quân khoảng 5% trong tổng chi.
Chi
không thường xuyên:
- Chi
cho nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu khoa học là hoạt động hết sức quan trọng và
là hoạt động không thể thiếu đối với các trường ĐHCL, việc đẩy mạnh nghiên cứu
khoa học sẽ tạo điều kiện cho các trường khẳng định được thương hiệu và uy tín
đối với xã hội. Thực tế cho thấy khoản chi cho nghiên cứu khoa học ở các trường
ĐHCL chưa nhiều, nguồn kinh phí nghiên cứu khoa học được sử dụng chưa hiệu quả,
thậm chí có trường các đề tài nghiên cứu khoa học đến hạn nhưng vẫn chưa hoàn
thành xong và một số trường không sử dụng hết kinh phí NSNN phân bổ cho nghiên
cứu khoa học.
- Chi thực
hiện chương trình mục tiêu quốc gia: Đây là khoản chi từ nguồn NSNN cấp nhằm thực
hiện chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong từng giai đoạn của nhà nước.
Chi chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục đào tạo cho các trường đại học
bao gồm các khoản chi : Chi xây dựng chương trình khung, giáo trình giảng dạy
cho các môn học dùng chung, chi đào tạo cán bộ tin học, đưa tin học vào nhà trường,
chi đào tạo bồi dưỡng giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục, chi tăng cường cơ
sở vật chất các trường học… Hiện nay, kinh phí NSNN cấp chi chương trình mục
tiêu quốc gia được các trường ĐHCL sử dụng hiệu quả, tuy nhiên nguồn kinh phí
NSNN cấp cho các trường còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu hoạt động của các
trường.
- Chi
không thường xuyên khác: Các khoản chi thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp thẩm
quyền giao và các khoản chi không thường xuyên khác, các khoản chi này rất ít
phát sinh nếu có sẽ thực hiện quản lý chi theo đúng quy định của nhà nước.
Chi
khác: Các nguồn chi khác như : Tài trợ, viện trợ của các hoạt động hợp tác quốc
tế trên lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học, tài trợ học bổng sinh viên, quà
biếu tặng và các khoản vay nợ như dự án GDĐH của ngân hàng thế giới…được quản
lý chi theo nội dung chi tiết đã thoả thuận với các tổ chức tài trợ. Đối với
nguồn tài trợ từ nước ngoài cấp thì các đơn vị được tài trợ sau khi thực hiện
xong các nội dung chi theo thoả thuận tài trợ tiến hành lập báo cáo theo quy định
của bên tài trợ, đồng thời đưa vào quyết toán theo biểu mẫu báo cáo quyết toán
của nhà nước ở nguồn kinh phí tài trợ theo năm tài chính. Các khoản quyết toán
chi kinh phí tài trợ của các trường qua 3 năm không đáng kể, chiếm tỷ trọng
1%-2% trong tổng chi NSNN và chi sự nghiệp các trường.
3. Vấn
đề về sử dụng và quản lí tài sản Nhà nước trong đơn vị
sự nghiệp có thu là các trường đại học công lập.
Các quy định về sử dụng
và quản lí tài sản Nhà nước trong đơn vị sự nghiệp có thu là các trường đại học
công lập được quy định tại Điều 30, Điều
31 Luật quản lí và sử dụng tài sản nhà nước năm 2008, gồm những yêu cầu sau:
Thứ nhất, việc sử dụng không ảnh hưởng đến chức năng nhiệm vụ được
giao. Các trường đại học được lập ra nhằm mục đích thực hiện việc đào tạo nguồn
nhân lực cho xã hội. Do vậy, việc quản lí, sử dụng tài sản nhà nước tại đơn vị
phải hướng vào việc thực hiện mục tiêu này.
Thứ hai, sử dụng tài sản dúng mục đích đầu tư xây dựng, mau sắm.
Chỉ được sư rdungj tài sản nhà nước vào mục đích giảng dạt, không được sử dụng
tài sản nhà nước để cho thuê, liên kết, liên doanh với mục đích đầu tư xây
dựng, mua sắm tài sản nhưng cho thuê để tổ chức đám cướ, liên doanh để kinh
doanh văn phòng cho thuê, khách sạn, nhà hàng....
Thứ ba, phát huy công suất và hiệu quản sử dụng tài sản nhà nước.
Yeeuc ầu này đảm bảo cho việc khai thác tối đa công suất sử dụng của tài sản
nhà nước tại đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, đồng thời khi xem xét,
quyết định việc sử dụng tài sản nhà nước cho thuê, sản xuất kinh doanh dịch vụ,
liên dioanh, liên kết phải tính toán sao cho viêc sử dụng tài sản đó có hiệu
quả.
Thứ tư, thực hiện theo cơ chế thị trường và tuân thủ các quy định
của pháp luật có liên quan. Nghĩa là việc xác định giá cho thuê tài sản, xác
định vốn góp khi liên doanh, liên kết thì ta phải theo giá thị trường, tài sản
khi đem vào sản xuất, kinh doanh dịch vụ phải được trích khấu hao, hạch toán
đầy đủ để có nguồn tái tạo lại sản phẩm mới. Vì vậy, để các đơn vị sự nghiệp
công lập phải tuân theo các quy định của pháp luật về đất đai, môi trường và
thuế. Ngoài ra, Điều 33 Luật quản lý và sử dụng tài sản nhà nước năm 2008 còn
quy định “tiền thu từ các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ, liên doanh,
liên kết phải hạch toán theo quy định của pháp luật về kế toán, thống kê và
quản lý sử dụng theo cơ chế tài chính áp dụng với doanh nghiệp. Tiền thu được
từ cho thuê tài sản, đơn vị phải hạch toán riêng, sau khi trừ chi phí hợp lý
liên quan, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà nước,
đơn vị được sử dụng để phát triển hoạt động sự nghiệp”. Cũng theo Điều 12 Nghị
định 43/2006 thì “số tiền trích khấu hao tài sản cố định và tiền thu từ thanh
lý tài sản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, đơn vị được để lại bổ sung Quỹ phát
triển sự nghiệp. Số tiền trích khấu hao, thu thanh lý tài sản thuộc nguồn vốn
vay được dùng để trả nợ vay. Trường hợp đã trả đủ nợ vay, đơn vị được để lại bổ
sung Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp đối với số còn lại (nếu có)”.
Ngoài ra theo quyết định
số 115/2008/QĐ – TTg của thủ tướng chính phủ các đơn vị sự nghiệp càn phải công
khai việc quản lí và sử dụng tài sản Nhà nước tại đơn vị mình. Các đơn vị phải
có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin về quản lí,
sử dụng tài sản công khai qua các hình thức: công bố trong các kì họp thường
niên của các đơn vị, phát hành ấn phẩm, niêm yết tại trụ sở làm việc.... Quy định như vậy nhằm hạn chế tình trạng lấy của
công để phục vụ cho nhu cầu cá nhân, biển thủ của công, tăng cường quản lý,
giám sát của tập thể và của các cơ quan có thẩm quyền. Nếu những quy định về
công khai quản lý, sử dụng tài sản nhà nước không được thực hiện đúng thì thủ
trưởng các đơn vị và cá nhân có liên quan tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ
bị kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Thứ nhất: Về
vấn đề trích lập quỹ. Theo Điều 19 Nghị định 43 năm 2006 và khoản 4 mục
VIII Thông tư 71 năm 2006 thì hàng năm sau khi trang trải các khoản phí, nộp
thuế và các khoản khác theo quy định, phần chênh lệch thu lớn hơn chi thì đơn
vị sẽ ưu tiên trích tối thiểu 25% số chênh lệch thu lớn hơn để lập quỹ
phát triển hoạt động sự nghiệp và tối đa với các loại quỹ khen thưởng,
quỹ phúc lợi, quỹ dự phòng ổn định thu nhập. Qua trình tự lập quỹ thể
hiện trình độ ưu tiên đối với nhiệm vụ của từng loại quỹ này, cụ thể là vấn đề
phát triển sự nghiệp rất được coi trọng vì đó là chức năng chính của đơn
vị. Ngoài ra, quy định về trình tự như vậy còn tránh được sự lạm dụng
quỹ để tư lợi. Tuy vậy, cũng cần nghiêm cấm thành lập những loại quỹ
không được cho phép để tránh sự liên kết giữa một vài người lãnh đạo, lợi dụng
chức quyền để thành lập và sử dụng quỹ bất hợp pháp. Nhưng một vấn đề còn tồn
tại ở các đơn vị sự nghiệp có thu hiện nay là không có một cơ chế quản
lý nguồn quỹ rõ ràng và hiệu quả, không có người giám sát chính, việc
công khai và kiểm tra quỹ cũng không rõ ràng.
Thứ hai:Về vấn
đề thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước. Khi thực hiện nghĩa vụ với
ngân sách nhà nước, các trường đại học công lập có các hoạt động dịch vụ không
phải đăng ký kinh doanh như các doanh nghiệp nhưng phải đăng ký, kê khai, nộp
đủ các loại thuế và các khoản khác, được miễn giảm thuế theo quy định về pháp
luật thuế. Vì vậy, các trường này cũng phải mở tài khoản tại kho bạc nhà nước
để phản ánh các khoản kinh phí thuộc ngân sách nhà nước theo quy định của Luật
ngân sách nhà nước, được mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng hoặc kho bạc nhà
nước để phản ánh các khoản thu chi của hoạt động dịch vụ. Đặc điểm này khác hẳn
so với các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp này cũng phải đăng ký, kê
khai và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhưng lại được tự do trong việc lựa chọn mở
tài khoản tại ngân hàng nào và không phải mở tài khoản tại kho bạc nhà nước.
Các quy định này nhằm tăng cường sự giám sát của nhà nước đối với hoạt động tài
chính của đại học công lập và mối liên hệ phụ thuộc ràng buộc giữa đại học công
lập và nhà nước đảm bảo chống thất thoát cho ngân sách nhà nước.
- Đều
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính của đơn vị mình.
- Đều
có con dấu và được mở tài khoản tại Ngân hàng thương mại hoặc Kho bạc Nhà nước
để giao dịch.
• Về bản chất:
- Đại học công lập: là đơn vị sự nghiệp do
Nhà nước đầu tư cơ sở về kinh phí và cơ
sở vật chất,hoạt động chủ yếu từ các nguồn tài chính hoặc các khoản đóng góp
phi vụ lợi,do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, có dự toán độc lập,có
con dấu và tài khoản riêng,tổ chức bộ máy kế toán theo quy định của Luật kế
toán.
- Đại học dân lập: là cơ sở giáo dục đại học
do tổ chức xin thành lập và huy động các
nhà giáo,nhà đầu tư cùng đóng góp công sức,kinh phí và cơ sở vật chất đầu tư
nguồn ngoài ngân sách Nhà nước.Trường đại học dân lập là pháp nhân được tự chủ về tổ chức bộ máy,tuyển dụng lao
động và tài chính( có con dấu và được mở tài khoản tại Ngân hàng thương mại hoặc
Kho bạc Nhà nước để giao dịch) ( cái này hình như công lập cũng có)
à Cơ chế tài chính của Đại học công lập bên cạnh
phục vụ mục tiêu kinh tế -tài chính còn
phục vụ mục tiêu xã hội, là đơn vị sự nghiệp cho nên bản chất của nó là hoạt động
vì lợi ích chung của xã hội,không nhằm phát sinh lợi nhuận. Vì vậy chế độ tài
chính của đại học công lập phải cân đối
hài hòa giữ nhiệm vụ kinh tế và nhiệm vụ
xã hội.Còn bản chất của đại học dân lập là pháp nhân với mục đích sinh lợi là
quan trọng,tối đa hóa lợi nhuận.Chính điều này có ảnh hưởng quan trọng tới chế độ tài chính của 2 loại hình giáo dục này.
• Quá trình tạo lập tài chính (hay
các nguồn thu):
-Đại học công lập có nguồn thu từ:
+ Ngân sách nhà nước cấp:Kinh phí hoạt động
thường xuyên đối với trường đại học công lập được ngân sách nhà nước bảo đảm một
phần để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình;
+ Nguồn thu sự nghiệp bao gồm :
×
Thu học phí, lệ phí từ người học theo khung học phí do Nhà nước quy định;
×
Thu từ các hoạt động hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ,
sản xuất thử;
×Thu
từ hoạt động sản xuất, dịch vụ;
×
Các nguồn thu sự nghiệp khác: lãi tiền gửi ngân hàng, tiền thanh lý, khấu hao tải
sản mua sắm từ nguồn thu quy định tại khoản này;
+ Các nguồn thu khác theo quy định của
pháp luật, bao gồm :
×
Tài trợ, viện trợ, ủng hộ, quà tặng của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước;
×
Vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vốn góp của các tổ chức, cá nhân để
đầu tư, mở rộng và phát triển nhà trường;
×
Các nguồn thu hợp pháp khác.
- Đại
học dân lập có nguồn thu từ:
+ Nguồn thu sự nghiệp:
× Học phí của người học
× Lệ phí của người học
× Giá trị các hợp đồng đào tạo,
nghiên cứu khoa học, lao động, sản xuất
× Lãi tiền gửi ngân hàng
× Thu về thanh lý tài sản thuộc nguồn
vốn của trường
+ Vốn góp của các nhà đầu tư để đầu tư
phát triển trường;
+ Nguồn thu khác:
× Nguồn tài trợ, viện trợ, ủng hộ,
quà tặng của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.
× Nguồn vốn vay các tổ chức tín dụng,
ngân hàng.
× Các khoản thu khác.
àNguồn thu chính của đơn vi sự nghiệp có thu
là trường đại học công lập có sự đảm bảo một phần chi phí của Nhà nước. Trong khi đó các trường
đại học dân lập trong nguồn thu không hề có kinh phí do nhà nước cấp mà chủ yếu
là tài sản thuộc phần vốn góp của các nhà đầu tư và tài sản tăng thêm trong quá
trình hoạt động.
• Về sử dụng tài chính (hay các nguồn chi):
- Đại học công lập: các khoản chi được
chia thành chi thường xuyên và không thường xuyên phục vụ cho chi hoạt động thường
xuyên,hoạt động sản xuất,cung ứng dịch vụ, chi thực hiện nghiên cứu các đề tài
khoa học các cấp,chi đầu tư phát triển,chi các nhiệm vụ đột xuất được giao và
các khoản chi khác.
- Đại học dân lập: các khoản chi được phân
chia thành chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển được dùng để chi cho các
hoạt động cần thiết của nhà trường, thiết lập quỹ đầu tư phát triển và các quỹ
khác của nhà trường, ngoài ra còn phân chia cho các thành viên góp vốn theo tỷ
lệ vốn góp.
à Đối với các khoản chi thường xuyên cả hai loại
hình đơn vị sự nghiệp này đều phải có vì đây được định nghĩa là những khoản chi
cần thiết, không thể trì hoãn được để duy trì các hoạt động và sự tồn tại của
đơn vị sự nghiệp công lập cũng như dân lập. Còn đối với đại học dân lập phải
tách riêng một khoản chi đầu tư phát triển vì như ở trên chúng ta đã thấy, đại
học dân lập không hề có kinh phí hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước, tất cả mọi thứ về
cơ sở vật chất, phương tiện kĩ thuật đều là tài sản tư của đại học dân lập, học
tự tạo lập và đương nhiên họ cũng phải tự đầu tư phát triển cũng như sửa chữa,
còn đối với đại học dân lập việc đầu tư
phát triển cơ sơ hạ tầng đều nhận được sự hỗ trợ từ kinh phí Nhà nước.
• Về quản lý tài chính:
- Đại học công lập:
Theo điều 17 Nghị định số 43/2006 thì việc quản lí tài chính như sau:
“1. Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, đối với
các khoản chi thường xuyên quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định này, Thủ trưởng
đơn vị được quyết định một số mức chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ cao hoặc
thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
2. Căn cứ tính chất công việc, thủ trưởng đơn
vị được quyết định phương thức khoán chi phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc.
3. Quyết định đầu tư xây dựng, mua sắm mới và
sửa chữa lớn tài sản thực hiện theo quy định của pháp luật và quy định tại Nghị
định này.”
- Đại học dân lập:
Theo Điều 44 Quyết định số 86/2000 về Quy
chế trường đại học dân lập:
“Hội đồng quản trị tự xây dựng quy chế hoạt động
về tài chính, quy định mức thu chi phù hợp với tình hình của nhà trường và các
quy định của Nhà nước đối với các trường ngoài công lập báo cáo Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Bộ Tài chính.
Trường đại học dân lập thực hiện chế độ tài
chính công khai; Hội đồng quản trị thành lập Ban Kiểm tra tài chính để định kỳ
và đột xuất tổ chức kiểm tra sổ sách kế toán, việc sử dụng kinh phí của trường,
tình hình tăng giảm tài sản, nguồn vốn và báo cáo Hội đồng quản trị, đồng thời
công khai các khoản thu, chi cho cán bộ, nhân viên trong trường”.
àNhư vậy có thể thấy, việc quản lí tài chính
trong các trường đại học công lập chỉ gói gọn trong một số hoạt động còn lại việc
chi tiêu vẫn phải có sự can thiệp của cơ quan có thẩm quyền, việc xây dựng mua
sắm cũng đều trong khuôn khổ pháp luật quy định. Còn đối với đại học dân lập do
không dựa vào ngân sách Nhà nước nên được tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính theo
nguyên tắc cân đối thu chi,duy trì các hoạt động và phát triển của nhà trường.
Về việc thực hiện cơ chế trao quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các trường ĐHCL đã bước đầu được phát huy
hiệu quả, đã huy động được một bộ phận nguồn lực của xã hội để phát triển sự
nghiệp giáo dục. Việc thực hiện cơ chế tự chủ còn giúp gián tiếp mang lại một
thành công nữa là phân biệt rõ chức năng nhiệm vụ của các cơ quan hành chính và
đơn vị sự nghiệp có thu là ĐHCL, từ đó thay đổi phương thức quản lí đối với
ĐHCL. Cụ thể, các cơ quan quản lí nhà nước đã có sự thay đổi theo hướng giao
quyền tự chủ về quản lí biên chế, lao động, hoạt động chuyên môn…cho đơn vị sự
nghiệp có thu. Điều này đã góp phần làm rõ chức năng, nhiệm vụ của từng vị trí
chức danh biên chế, công chức, viên chức trong các cơ quan, đơn vị; cải thiện
được thủ tục quản lí chi phí, động viên cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành
tốt nhiệm vụ. Việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị sự
nghiệp không ngừng tìm kiếm biện pháp mở rộng hoạt động dịch vụ, mở rộng nguồn
thu, chi tiêu tiết kiệm để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh các kết quả đã
đạt được trên, việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các CSGDĐH công
lập chưa đạt được kết quả so với yêu cầu phát triển, bởi các lý do sau:
Thứ
nhất, phân bổ ngân sách nhà nước (NSNN) chưa
gắn với nhu cầu kinh phí cần thiết cho việc đảm bảo chất lượng đào tạo, chưa
khuyến khích việc điều chỉnh cơ cấu ngành nghề đào tạo. Định mức phân bổ ngân
sách cho các CSGDĐH công lập về cơ bản vẫn mang nặng tính bao cấp, bình quân và
chủ yếu dựa vào các yếu tố "đầu vào" nên chưa gắn kết giữa kết quả sử
dụng nguồn lực NSNN với kết quả, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Theo đó, phần nào
hạn chế tính năng động, sáng tạo của các CSGDĐH công lập trong việc huy động
thêm các nguồn lực xã hội mà còn trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước.
Đối với
cơ sở đào tạo: Một trong những điều kiện để thực hiện
tự chủ tài chính là các đơn vị phải hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhưng trên
thực tế, do các CSGDĐH công lập được thực hiện cơ chế tự chủ về thực hiện nhiệm
vụ, các trường tự đăng ký chỉ tiêu đào tạo, ngành nghề đào tạo, chỉ tiêu chất
lượng đầu ra, bởi hiện nay vẫn còn thiếu tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện
nhiệm vụ gắn với NSNN được giao; Đồng thời, thiếu tiêu chí kiểm định chất lượng
đào tạo, các chuẩn mực chung để so sánh, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ
của từng trường so với chuẩn chung. Chính vì vậy, việc đánh giá kết quả hoàn
thành nhiệm vụ của các trường chủ yếu do các trường tự đánh giá, dẫn đến, việc
hỗ trợ từ NSNN đối với các CSGDĐH công lập vẫn thực hiện một cách bình quân
NSNN, không gắn với kết quả, chất lượng đào tạo… do đó không tạo được động lực
cạnh tranh giữa các trường đại học công lập.
Đối với
Nhà nước: Thực tế hiện nay, cơ chế phân bổ nguồn
lực NSNN vẫn mang tính chất bình quân giữa các CSGDĐH công lập, chưa gắn với
các tiêu chí chất lượng và kết quả đầu ra. Do vậy, chưa khuyến khích các CSGDĐH
nâng cao chất lượng đào tạo thông qua việc đổi mới giáo trình, cải tiến phương
pháp giảng dạy, tăng cường cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, thư viện, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ của giáo viên... Mặt khác, cơ chế phân bổ NSNN hiện
hành vẫn thể hiện sự ưu tiên cho các cơ sở đào tạo công lập, chưa bình đẳng với
đối tượng ngoài công lập. Trên phương diện hiệu quả xã hội, thì trường đại học
công lập hay đại học ngoài công lập đều có nhiệm vụ, đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ cao cho xã hội. Cơ sở nào hoạt động hiệu quả, có chất lượng tốt thì
phải được ưu tiên tiếp cận với nguồn lực tài chính công. Tuy nhiên, việc ưu
tiên cho các CSGDĐH công lập đã không tạo điều kiện khuyến khích các CSGDĐH
ngoài công lập phát triển.
Thứ hai, duy trì mức học phí thấp, không đủ bù đắp chi thường xuyên: Chế độ học
phí đối với các trường công lập chậm được đổi mới, mức thu học phí vẫn còn
thấp, dưới mức khả năng chi trả của người dân ở các khu đô thị, chưa phù hợp
với mặt bằng giá cả. Điều này, làm hạn chế quyền tự chủ của các trường trong
quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính. Việc duy trì mức học phí thấp, chưa
bù đắp đủ chi phí đào tạo dẫn đến một số hệ quả bất cập như: Đối với các cơ sở đào tạo công
lập: Các CSGDĐH công lập không có đủ nguồn tài chính, để bù đắp chi
phí đào tạo, đảm bảo chất lượng đào tạo và tái đầu tư phát triển, nâng cao chất
lượng đào tạo, cho nên phần lớn đều không đáp ứng đủ tiêu chí về cơ sở vật chất
đảm bảo chất lượng. Bên cạnh đó, do bị khống chế về trần học phí, nên để có
thêm nguồn thu, các CSGDĐH công lập buộc phải tăng số lượng và quy mô đào tạo,
mở rộng các loại hình đào tạo không chính quy, liên kết đào tạo. Việc duy trì
mức học phí thấp chính là một trong các nguyên nhân dẫn đến các CSGDĐH công lập
xé rào, ban hành nhiều khoản thu ngoài quy định, dẫn đến thiếu công khai, minh
bạch trong việc sử dụng nguồn thu.
Đối
với người học: Việc duy trì mức học phí thấp dưới mức chi phí đào tạo
và áp dụng đồng đều cho tất cả các học sinh, dẫn đến chính sách hỗ trợ của Nhà
nước đối với người học được thực hiện mang tính chất cào bằng, không có sự phân
biệt giữa học sinh gia đình nghèo với học sinh gia đình trung lưu. Trong khi
đó, tỷ lệ sinh viên của các gia đình trung lưu chiếm tỷ trọng đa số trong các CSGDĐH.
Thực trạng này dẫn đến nguồn NSNN đang trợ cấp ngược cho người giàu.
Đối
với đội ngũ giảng viên: Việc duy trì mức học phí thấp, dẫn đến các
CSGDĐH không có đủ nguồn để cải thiện thu nhập cho giảng viên từ nguồn học phí
chính quy, không thu hút và giữ được những giảng viên có trình độ tham gia
giảng dạy. Để có nguồn bổ sung thu nhập các trường phải khai thác từ các hoạt
động đào tạo không chính quy, dẫn đến thời gian đứng lớp của giảng viên đại học
phần lớn bị quá tải. Hầu hết các giảng viên đại học đều vượt định mức giờ giảng
theo quy định, có những trường hợp vượt tới 150% đến 200% định mức giờ giảng.
Điều này dẫn đến, việc giảng viên đại học không có thời gian để nghiên cứu khoa
học, nâng cao trình độ nghiệp vụ, đổi mới nội dung bài giảng, phương pháp sư
phạm... Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hướng đến chất lượng đào
tạo.
Để tháo gỡ và phát huy những kết quả đã đạt được, thời
gian tới cần lưu tâm tới các vấn đề, cụ thể như:
Một là, sớm
sửa đổi Nghị định số 43/2006/ NĐ-CP quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn
vị sự nghiệp công lập, cho phù hợp với thực tế... Theo đó, cần đẩy mạnh mở rộng
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các CSGDĐH công lập; Đổi mới cơ chế
tài chính theo hướng: Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong cung cấp
dịch vụ gắn với nhu cầu của xã hội.
Cụ thể là được quyết định thu giá dịch vụ trên cơ sở khung giá tính đủ các chi phí cần thiết do cấp có thẩm quyền ban hành; Được hạch toán đầy đủ chi phí; Được Nhà nước giao vốn và bảo toàn, phát triển vốn; Được quyền quyết định việc sử dụng tiền vốn, tài sản gắn với nhiệm vụ được giao theo quy định; Được huy động vốn, góp vốn liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác, để mở rộng việc cung cấp dịch vụ sự nghiệp công và tự quyết định biên chế và trả lương trên cơ sở thang bảng lương của Nhà nước và hiệu quả, chất lượng công việc.
Cụ thể là được quyết định thu giá dịch vụ trên cơ sở khung giá tính đủ các chi phí cần thiết do cấp có thẩm quyền ban hành; Được hạch toán đầy đủ chi phí; Được Nhà nước giao vốn và bảo toàn, phát triển vốn; Được quyền quyết định việc sử dụng tiền vốn, tài sản gắn với nhiệm vụ được giao theo quy định; Được huy động vốn, góp vốn liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác, để mở rộng việc cung cấp dịch vụ sự nghiệp công và tự quyết định biên chế và trả lương trên cơ sở thang bảng lương của Nhà nước và hiệu quả, chất lượng công việc.
Hai là, các
bộ, ngành, sớm ban hành các văn bản hướng dẫn, các tiêu chí đánh giá mức độ và
chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị được giao tự chủ nhằm tháo gỡ khó
khăn về cơ chế, chính sách. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, rà soát, sửa đổi,
bổ sung, ban hành mới các tiêu chuẩn, định mức và mở rộng lĩnh vực giao quyền
tự chủ cho các đơn vị; Sửa đổi chế độ khấu hao tài sản cố định (nhất là máy móc
thiết bị phục vụ giảng dạy với thời gian 3 năm là hợp lý); Sửa đổi chính sách
phí, lệ phí cho phù hợp với điều kiện thực tế.
Ba là, về
phía các trường, cần tiếp tục đổi mới một cách toàn diện: Xây dựng quy chế chi
tiêu nội bộ mang tính chi tiết, đảm bảo tính công khai, dân chủ và công bằng;
Xây dựng được hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động của từng người lao
động. Trong đó, chú trọng giải pháp chi trả thu nhập theo hiệu quả công việc,
khuyến khích, hấp dẫn, thu hút người có năng lực, có trình độ. Đặc biệt là phải
xây dựng được chiến lược tài chính hợp lý cho đầu tư cơ sở vật chất trong ngắn
hạn và dài hạn; Có giải pháp của riêng mình để huy động mọi cá nhân, tập thể
tham gia vào quá trình phát triển chất lượng đào tạo của nhà trường. Ngoài ra,
phải coi trọng và tích cực tìm kiếm, thu hút nguồn lực tài chính từ các nguồn
dự án, nguồn vốn viện trợ nước ngoài.
Trong những
năm qua, nhà nước đã quan tâm, đẩy mạnh đầu tư cho giáo dục, tỷ trọng ngân sách
chi cho giáo dục đào tạo tăng lên hàng năm, trong đó có GDĐH. Thực hiện đổi mới
nền giáo dục Việt Nam, trong đó có đổi mới cơ chế tài chính GDĐH theo hướng
trao cho các trường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động. Việc thực
pháp luật về chế độ tài chính của các trường ĐHCL đã đạt được những kết quả nhất
định,
Cạnh các kết quả đã đạt được trên, việc trao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các CSGDĐH công lập chưa đạt được kết quả
so với yêu cầu phát triển. Trong thời gian tới cần thực hiện các giải pháp để
tháo gỡ và phát huy những kết quả đã đạt được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét