Thứ Hai, 27 tháng 6, 2016

THỪA KẾ THẾ VỊ VÀ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ

LỜI NÓI ĐẦU


Để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của bản thân, để duy trì và phát triển cuộc sống, con người cần phải làm ra nhiều của cải vật chất mình và xã hội. Tuy nhiên, nếu tài sản có thể tồn tại vĩnh cửu hoặc chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác thì con người lại theo quy luật tự nhiên, không thể sống được mãi mà phải chết đi. Bởi vậy, việc dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống đã tồn tại như một yêu cầu khách quan của xã hội và được hiểu đó là việc thừa kế tài sản.
Với bản chất là một quan hệ tài sản, ngày nay, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, quan hệ thừa kế cũng trở nên phong phú và phổ biến trong giao lưu dân sự.Vì thế, chế định thừa kế có vị trí quan trọng và thực sự cần thiết trong hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự Việt Nam. Có hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, riêng thừa kế thế vị không phải là hình thức thừa kế. Hiện nay trong việc tranh chấp thừa kế nói chung, thừa kế thế vị nói riêng, việc xác định ai là người thừa kế di sản rất quan trọng.
Chính vì lý do trên, em đã chọn đề tài :“Thừa kế thế vị và hoàn thiện quy định của Bộ luật Dân sự về thừa kế thế vị” cho bài tiểu luận của mình. Trong bài viết, em xin đi sâu vào tìm hiểu quá trình phát triển, khái niệm, những Điều kiện và những trường hợp được hưởng thừa kế thế vị đồng thời đưa ra những ý kiến chủ quan nhằm hoàn thiện quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về vấn đề này.
Đây là vấn đề đòi hỏi kiến thức sâu rộng.Do sự am hiểu còn hạn chế nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đánh giá của các thầy cô.




NỘI DUNG


I. KHÁI NIỆM QUYỀN THỪA KẾ, THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT VÀ THỪA KẾ THẾ VỊ

1. Khái niệm quyền thừa kế

          Quyền thừa kế hiểu theo nghĩa rộng là pháp luật về thừa kế, là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định trình tự dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống. Thừa kế là chế định pháp luật dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định, đồng thời quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế.
          Hiểu theo nghĩa hẹp, quyền thừa kế là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể có quyền để lại di sản thừa kế hoặc có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết để lại theo ý chí của người đó hoặc theo quy định của pháp luật.
          Ngoài ra, dưới góc độ khoa học pháp lý, quyền thừa kế còn được hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự.Quan hệ pháp luật dân sự về thừa kế là quan hệ thừa kế được các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh.Quan hệ này cũng bao gồm chủ thế, khách thể và nội dung. Quan hệ thừa kế là quan hệ tài sản do Luật Dân sự Điều chỉnh được xác định là một quan hệ tuyệt đối giống quan hệ sở hữu, trong đó chỉ xác định được một bên chủ thể mang quyền là người để lại di sản hoặc những người thừa kế còn các chủ thể khác là những người có nghĩa vụ phải tôn trọng quyền để lại di sản thừa kế và quyền hưởng di sản thừa kế của họ.

2. Khái niệm về thừa kếtheo pháp luật

          Pháp luật thừa kế Việt Nam từ trước đến nay cũng giống như pháp luật thừa kế trên thế giới đều quy định cá nhân có quyền để lại di sản của mình sau khi chết cho người thân thích theo một trong hai hình thức: thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo di chúc là sự chuyển tài sản của người đã chết cho những người còn sống theo ý chí của người có di sản. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào người để lại di sản chết cũng để lại di chúc hoặc di chúc do người này lập ra là hợp pháp. Xuất pháp từ lý do này, chế định thừa kế theo pháp luật được coi là “sự phỏng đoán” ý chí của người để lại di sản.
          Theo quy định tại Điều 674 BLDS 2005 thì: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, Điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”. Như vậy, nếu như ở thừa kế theo di chúc, người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức và nếu là cá nhân thì có thể không phải là người có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản. Còn đối với thừa kế theo pháp luật thì chỉ có cá nhân mới được hưởng thừa kế và các cá nhân này phải có một trong ba mối quan hệ với người để lại di sản: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng. Tuy nhiên, không phải cứ bất cứ cá nhân nào có một trong ba quan hệ này với người để lại di sản cũng được hưởng thừa kế mà việc thừa kế được xác định theo hàng. Tương tự như vậy, không phải ai trong các hàng thừa kế cũng được hưởng di sản mà Điều này còn phụ thuộc vào nguyên tắc ưu tiên của hàng thừa kế.
          Thứ tự hàng thừa kế theo pháp luật:
          - Hàng thừa kế thứ nhất: Gồm vợ, chồng, cha đẻ,mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
          - Hàng thừa kế thứ hai: Gồm ông nội, bả nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu gọi người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
          - Hàng thừa kế thứ ba: Cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết (anh chị em ruột của cha mẹ người chết); cháu ruột của người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột (con của anh, chị em ruột của người chết). Chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

3. Khái niệm thừa kế thế vị

          Điều 677 BLDS 2005 quy định về thừa kế thế vị như sau: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc  mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”. Theo nguyên tắc chung, người thừa kế là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế nhưng pháp luật thừa kế nước ta quy định trường hợp khi con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản, thì quyền thừa kế thế vị của cháu vẫn được đảm bảo và nếu cháu cũng đã chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì quyền thừa kế thế vị của chắt cũng sẽ không bị xâm phạm. Quy định tại Điều luật này có điểm mới so với quy định về thừa kế thế vị tại Điều 680 BLDS 1995.Điều 680 BLDS 1995 chỉ quy định thừa kế thế vị trong trường hợp con hoặc cháu chết trước người để lại di sản mà không quy định đến trường hợp cháu hoặc chắt có được thừa kế thế vị hay không nếu cha hoặc mẹ của cháu hoặc của chắt chết cùng vào một thời điểm với ông bà nội, ngoại hoặc các cụ nội, ngoại.Quy định về thừa kế thế vị tại Điều 677 BLDS 2005 là phù hợp không những về mặt thực tế mà còn phù hợp với bản chất của thừa kế thế vị. Thừa kế thế vị là thừa kế bằng việc thay thế vị trí để hưởng thừa kế. Mặt khác theo tinh thần của Điều luật trên, thừa kế thế vị chỉ được đặt ra khi người được thế vị (con hoặc cháu) chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản (ông, bà hoặc cụ). Vì thế có thể hiểu, thừa kế thế vị là việc cháu hoặc chắt được hưởng di sản của ông bà hoặc cụ với tư cách thay thế vị trí của người cha hoặc người mẹ của mình để nhận phần di sản mà cha hoặc mẹ mình được hưởng nếu còn sống.
Thừa kế thế vị là trình tự nhận di sản khi có sự kiện con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu hoặc chắt nội ngoại của người đó được thừa kế thế vị. Thừa kế thế vị không thể hiểu là thừa kế theo pháp luật mà được hiểu là trình tự hưởng di sản do pháp luật quy định và tất cả những người thừa kế vị chỉ được hưởng chung nhau một phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu khi còn sống được hưởng. Như vậy, thừa kế thế vị chỉ phát sinh trên cơ sở thừa kế theo pháp luật chứ không phát sinh từ căn cứ di chúc. Người thừa kế theo di chúc đã chết hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì phần di chúc đó vô hiệu.
Quan hệ thừa kế theo hàng nói chung và quan hệ thừa kế thế vị nói riêng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Quan hệ thừa kế thế vị không phải là quan hệ thừa kế theo trình tự hàng nhưng hàng thừa kế là căn cứ để xác định quan hệ thừa kế thế vị trong trường hợp con của người chết để lại di sản là người được hưởng thừa kế theo hàng thừa kế là căn cứ để xác định quan hệ thừa kế thế vị trong trường hợp con của người để lại di sản là người được hưởng thừa kế theo hàng nhưng đã chết trước hoặc chết cùng vào một thời điểm với người để lại di sản. Những người thừa kế thế vị chỉ được hưởng chung một suất thừa kế được chia theo pháp luật mà người được thừa kế theo hàng được hưởng nếu còn sống nhưng đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản.
Thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ những lợi ích chính đáng của những người thân thuộc nhất của người để lại di sản, nhằm bảo vệ quyền hưởng di sản của các cháu của người để lại di sản một cách trực tiếp nhất. Tránh tình trạng di sản của ông bà mà các cháu không được hưởng, lại để người khác hưởng.Thừa kế thế vị bảo tồn được truyền thống và đạo lý trong quan hệ giữa những người thân thuộc nhất của người để lại di sản đã và đang được thừa nhận ở Việt Nam.

II. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ TỪ TRƯỚC NĂM 1945 ĐẾN NAY

Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến.Hệ thống pháp luật trong giai đoạn này chỉ là công cụ của thực dân Pháp nhằm thực hiện triệt để chính sách khai thác thuộc địa.Do vậy, pháp luật dân sự ở Việt Nam ra đời trong giai đoạn này cũng chứa đựng bản chất thực dân-phong kiến khá rõ nét; đặc biệt trong Bộ dân luật giản yếu năm 1883, Dân luật Bắc kỳ năm 1931, Dân luật Trung kỳ năm 1936. Theo quy định của Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ thì quyền thừa kế di sản trước hết thuộc về các con của người để lại di sản; nếu con không còn và có cháu thì cháu được thế vị nhận di sản của ông bà.
Ngay sau khi giành được độc lập, cùng với lễ tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản có những quy định về quyền thừa kế như trong đó có những văn bản quy định về thừa kế như: Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950, Thông tư số 1742 - BNC ngày 18/9/1956 của Bộ Tư pháp, Thông tư số 594-NCPL ngày 27/8/1968 của Toà án nhân dân tối cao, Thông tư số 81/TANDTC ngày 24/7/1981, Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990.Các văn bản pháp luật này khi quy định về thừa kế thế vị đều tuân theo một đặc điểm chung là trong hàng thừa kế thứ nhất nếu một người con chết trước người để lại di sản thì những người con, cháu của người này được thay thế bố, mẹ mình chết trước ông bà hoặc các cụ để hưởng thừa kế thế vị.Tuy nhiên, văn bản pháp luật được ban hành phải phù hợp với tình hình thực tế của thời kỳ tương ứng. Vì vậy, dù mang đặc điểm chung nói trên nhưng các văn bản này vẫn có sự khác nhau trong việc xác định cụ thể các trường hợp được thừa kế thế vị.
Trong tiến trình đổi mới, Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật dân sự đầu tiên vào năm 1995 và có hiệu lực ngày 01/7/1996. Đây là là kết quả của quá trình pháp điển hóa luật dân sự Việt Nam trong suốt hơn 50 năm.Lần đầu tiên chế định thừa kế được quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995 khá đầy đủ và hoàn thiện nhất mà những văn bản pháp luật trước đó chưa quy định. Tuy nhiên, sau 10 năm áp dụng, có những quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 đã không còn thích hợp, một số Điều khoản đã không phát huy được tác dụng tích cực trong việc Điều chỉnh các quan hệ về tài sản, trong đó có những quy định về thừa kế. Năm 2005, nhà nước lại ban hành Bộ luật dân sự bổ sung, sửa đổi thay thế Bộ luật dân sự năm 1995. Vấn đề thừa kế thế vị ở Bộ luật dân sự 2005 cũng được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với sự phát triển của xã hội.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005
1. Điều kiện hưởng thừa kế thế vị
          Thừa kế thế vị chỉ phát sinh trên cơ sở thừa kế theo pháp luật, không phát sinh từ căn cứ di chúc. Chính vì vậy mà điều kiện để hưởng thừa kế thế vị của người thừa kế cũng phải thỏa mãn được những điều kiện hưởng di sản nói chung của người thừa kế theo pháp luật. Đó là:
- Cháu phải còn sống vào thời điểm ông, bà chết mới là người thừa kế thế vị tài sản của ông, bà. Chắt phải sống vào thời điểm cụ chết mới là người thừa kế tài sản của cụ.
- Đối với trường hợp cháu sinh ra sau khi ông bà chết nhưng thành thai trước khi ông, bà chết cũng là người thừa kế thế vị tài sản của ông, bà; chắt sinh ra sau khi cụ chết, nhưng đã thành thai trước khi cụ chết cũng là người thế vị tài sản của cụ.
- Thừa kế thế vị sẽ không phát sinh nếu như trường hợp cháu hoặc chắt bị tước quyền hưởng di sản hoặc từ chối hưởng quyền di sản của ông, bà hoặc cụ.
          Bên cạnh những điều kiện của người thừa kế pháp luật, muốn phát sinh quan hệ thừa kế thế vị cần có những điều kiện đặc thù khác.Điều 677 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”. Theo quy định trên, cháu hoặc chắt được thừa kế thế vị của ông, bà nội, ngoại hoặc các cụ nội, ngoại với những Điều kiện:
          - Cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt chết trước hoặc cùng một thời điểm với ông bà nội, ông bà ngoại hoặc các cụ nội, cụ ngoại;
          - Cháu hoặc chắt chỉ được thừa kế thế vị hưởng di sản của ông, bà hoặc của các cụ phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt được hưởng nếu còn sống.
          Trước đây, quy định tại Điều 680 BLDS 1995, điều kiện để được hưởng thừa kế thế vị được quy định như sau: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha, mẹ cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”. Như vậy, Điều 680 BLDS 1995 chỉ quy định điều kiện cháu hoặc chắt chết trước ông, bà hoặc cụ mà không quy định trường hợp chết cùng thời điểm. Trong thực tiễn, có những trường hợp ông và cha chết cùng thời điểm, mà không xác định được ai là người chết trước, ai chết sau trong khi đó hàng thừa kế thứ nhất của ông chỉ có một mình người cha đó. Theo quy định về thừa kế theo hàng và quy định tại Điều 680 BLDS 1995 thì di sản thừa kế sẽ được để lại cho những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai mà người là cháu của người để lại di sản không được hưởng di sản của ông để lại (do cháu không thuộc hàng thừa kế thứ hai của ông, đồng thời cũng không được hưởng thừa kế thế vị của ông khi cha cháu chết cùng thời điểm với ông). Trong khi đó xét về mối quan hệ thân thuộc, gần gũi thì cháu là người có quan hệ huyết thống gần gũi với ông hơn so với tất cả những thành viên ở hàng thừa kế thứ hai.
          Như vậy, Điều 677 BLDS 2005 có bổ sung thêm điều kiện: chết cùng một thời điểm với người để lại di sản.

2. Các trường hợp thừa kế thế vị

          Thừa kế thế vị xét trên tổng thể về quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa người để lại di sản với con, cháu người đó.
          - Về quan hệ huyết thống: Thừa kế thế vị xét mối quan hệ huyết thống giữa người để lại di sản với người thuộc hàng thừa kế thứ nhất là quan hệ cha con, mẹ con. Người cháu, người chắt có quan hệ huyết thống trực hệ với người để lại di sản có quyền thừa kế thế vị nhận di sản của ông, bà hoặc cụ khi cha, mẹ của cháu, chắt chết trước hoặc cùng thời điểm với ông, bà hoặc cụ mà đáng lẽ nếu sống thì được hưởng.
          - Về quan hệ nuôi dưỡng: Giữa con nuôi và cha mẹ nuôi không có mối quan hệ huyết thống mà chỉ có quan hệ nuôi dưỡng nhau. Nhưng nếu con nuôi chết trước cha, mẹ nuôi thì con của con nuôi được nhận thừa kế thế vị như các cháu có quan hệ huyết thống với người để lại di sản. Phương thức trên cũng được áp dụng cho các cháu là con đẻ của người con riêng của vợ hoặc chồng. Nếu con riêng và cha kế, mẹ kế đã thể hiện được nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, yêu thương nhau như cha con mẹ con
2.1. Thừa kế thế vị trong trường hợp thông thường (Quan hệ huyết thống)
          Vấn đề thừa kế thế vị được quy định tại Điều 677 BLDS 2005. Theo quy định này thì thừa kế thế vị là việc con thay thế vị trí của cha hoặc mẹ để hưởng thừa kế di sản từ ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại hoặc cụ nội, cụ ngoại nếu cha mẹ đã chết trước hoặc cùng thời điểm với những người này. Phần di sản người con được hưởng trong khối di sản của người để lại di sản thừa kế nói trên là phần di sản mà cha hoặc mẹ của người đó được hưởng nếu còn sống.
          Điều 677 chỉ quy định con của người để lại di sản mà không quy định cụ thể ở đây là con đẻ hay con nuôi, con trong giá thú hay con ngoài giá thú. Pháp luật không cho phép có sự phân biệt giữa con đẻ với con nuôi, con trong giá thú với con ngoài gia thú. Pháp luật thừa nhận giữa những người con này và cha, mẹ chúng đều có những quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Mọi sự phân biệt đối xử đều có thể coi là trái quy định của pháp luật.
          BLDS 1995 khi quy định về thừa kế thế vị của cháu và chắt thì không quy định cháu được ở hàng thừa kế thứ hai của ông, bà; chắt không được ở hàng thừa kế thứ ba của cụ.Quy định như vậy không đảm bảo được các lợi ích của cháu và chắt trên thực tế. Thực tế có trường hợp cha hoặc mẹ của cháu là con độc nhất của ông bà nội, ngoại đều chết vào cùng thời điểm với ông bà nội, ông bà ngoại mà khi còn sống cha hoặc mẹ cháu từ chối nhận di sản hoặc không có quyền được hưởng di sản thì trong trường hợp này, quyền lợi của người cháu sẽ không được pháp luật bảo vệ. BLDS 2005 đã bổ sung cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông bà, chắt vào hàng thừa kế thứ 3 của cụ và quy định thừa kế thế vị nhằm bảo đảm nguyên tắc việc chuyển giao di sản được ưu tiên cho những người thân thích nhất của người để lại di sản.
          Có hai trường hợp thừa kế thế vị thông thường như sau: cháu thế vị cha, mẹ mình để nhận di sản của ông bà và chắt thế vị cha, mẹ mình để nhận di sản thừa kế của cụ.
a) Cháu thế vị cha hoặc mẹ của cháu để hưởng di sản của ông bà
          Theo quy định tạiĐiều 677 BLDS 2005, trường hợp cha chết trước hoặc cùng thời điểm với ông nội, bà nội thì cháu được thay thế vị trí của cha hưởng di sản của ông nội, bà nội để lại; trường hợp mẹ chết trước hoặc cùng thời điểm với ông ngoại bà ngoại thì cháu thay thế vị trí của mẹ hưởng di sản thừa kế của ông ngoại, bà ngoại để lại. Xét trong mối quan hệ này, cha mẹ được gọi là người được thừa kế thế vị và cháu được gọi là người thừa kế thế vị thay thế vị trí của cha, mẹ mình để hưởng phần di sản của ông bà mà lẽ ra nếu còn sống thì cha mẹ được hưởng. Quan hệ giữa “ông bà”, “cháu”, “cha”, “mẹ” trong trường hợp này là mối quan hệ huyết thống.
          Vấn đề cần đề cập xung quanh mối quan hệ huyết thống là việc liên quan đến vấn đề con trong gia thú hay con ngoài giá thú.
          Khoản 1 Điều 63 Luật Hôn nhân gia đình 2000 quy định về con chung của vợ chồng như sau: “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng”. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cha, mẹ và con, Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 còn quy định thêm nội dung: “Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng”. Bên cạnh đó, Điều 63 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 còn hướng dẫn: Con sinh ra trong vòng 300 ngày, kế từ ngày người chồng chết hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án xử cho vợ chồng có hiệu lực pháp luật thì được xác định là con chung của 2 người. Như vậy, con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trước thời kỳ đó cũng như con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn nhưng được cha mẹ thừa nhận đều được pháp luật công nhận là con chung của vợ chồng. Quan hê giữa cha, mẹ và con trong trường hợp này dựa trên sự kiện thụ thai và sinh đẻ, con được sinh ra trong thời kỳ này mặc nhiên được suy đoán là con đẻ của vợ chồng. Đương nhiên cha mẹ và con đẻ có quyền của nhau theo quy định của pháp luật và theo quy định về thừa kế thế vị. Trường hợp người chồng không công nhận mối quan hệ huyết thống này thì có quyền chứng minh không phải là cha của đứa trẻ và tòa án sẽ xác nhận về những chứng cứ chứng minh này.
          Đối với trường hợp con ngoài giá thú, việc xác định quan hệ cha, mẹ và con trong trường hợp này là phức tạp và khó khăn hơn so với việc xác định con trong trường hợp cha mẹ có hôn nhân hợp pháp. Đối với việc xác định mẹ cho con ngoài giá thú thì người mẹ phải có nghĩa vụ chứng minh trước cơ quan pháp luật mình đã sinh ra đứa trẻ đó. Trong trường hợp cha mẹ lẩn tránh việc nhận con ngoài giá thú thì theo yêu cầu của người con đã thành niên, tòa án sẽ xác định cha mẹ cho con theo trình tự luật định.
b) Chắt thế vị cha hoặc mẹ của chắt để hưởng di sản của cụ
          Người để lại di sản, người được thế vị và người thế vị có quan hệ huyết thống.
          Chắt sẽ được thay thế vị trí của cha hoặc mẹ của chắt để hưởng di sản của cụ trong các trường hợp sau đây:
          - Trường hợp ông bà nội chết trước người để lại di sản là cụ, cha cũng chết trước người để lại di sản nhưng chết sau ông nội, bà nội thì chắt được hưởng phần di sản mà cha mình được hưởng nếu còn sống vào thời điểm người để lại di sản chết.
          - Trường hợp ông bà ngoại chết trước người để lại di sản là cụ, mẹ cũng chết trước người để lại di sản nhưng chết sau ông ngoại, bà ngoại thì chắt được hưởng phần di sản mà mẹ mình được hưởng nếu còn sống vào thời điểm người để lại di sản chết.
          - Trường hợp ông, bà, cha, mẹ đều chết cùng với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha, mẹ mình được hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
          - Trường hợp ông, bà chết trước người để lại di sản, cha mẹ chết sau ông, bà nhưng chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha, mẹ chắt được hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
          - Nếu cụ không còn người có quyền hưởng di sản ở hàng thứ nhất thì trường hợp chắt thay thế vị trí của cha mẹ mình hưởng di sản của cụ sẽ phát sinh trong trường hợp ông, bà không được quyền hưởng di sản của cụ và cha, mẹ của chắt chết trước hoặc chết cùng thời điểm cụ, khi đó chắt được thế vị cha, mẹ mình để hưởng thừa đối với di sản của cụ.
Ngoài quan hệ huyết thống thì luật quy định về quyền được thừa kế thế vị còn dựa trên quan hệ nuôi dưỡng: người để lại di sản và con nuôi người đó, con riêng của vợ hay chồng người đó có thể hiện được nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau hay không.
2.2 Thừa kế thế vị trong các trường hợp đặc biệt
a) Thừa kế thế vị trong trường hợp có nhân tố con nuôi
          Quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận con nuôi là quyền dân sự của mỗi cá nhân. Vấn đề thừa kế thế vị có nhân tố con nuôi trong BLDS hiện nay được quy định tại Điều 678, theo đó: “Con nuôi và cha nuôi mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và 677 Bộ luật này”. Việc phân tích mối quan hệ giữa người được nhận làm con nuôi và các thành viên khác trong gia đình người nhận nuôi con nuôi, cũng như mối quan hệ giữa người được nhận làm con nuôi với chính cha mẹ đẻ của họ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định quan hệ thừa kế nói chung cũng như quan hệ thừa kế thế vị nói riêng có phát sinh hay không và phát sinh trong trường hợp nào. Bởi quan hệ thừa kế thế vị không chỉ dựa trên cơ sở mối quan hệ huyết thống mà còn dựa trên cả mối quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau.Tuy nhiên quy định Điều luật liên quan đến vấn đề thừa kế thế vị có nhân tố con nuôi còn quá chung chung nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau và chưa thống nhất trong quá trình giải quyết các tranh chấp.
b) Thừa kế thế vị trong trường hợp con riêng, cha dượng, mẹ kế
          Thừa kế thế vị không những chỉ phát sinh giữa những người có quan hệ huyết thống mà còn phát sinh giữa những người chỉ có quan hệ nuôi dưỡng nhau, yêu thương nhau. Sự thể hiện nghĩa vụ theo luật định hay tự nguyện thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau giữa cha dượng, mẹ kế với con riêng của vợ, của chồng trên tình yêu thương, có trách nhiệm và công bằng là căn cứ được thừa kế theo pháp luật tài sản của nhau. Đồng thời đây cũng căn cứ xác định thừa kế thế vị cho những người con của con riêng mà người để lại di sản là cha dượng, mẹ kế chết sau người con riêng đó.Quy định về thừa kế thế vị giữa con riêng, cha dượng, mẹ kế được ghi nhận tại Điều 682 BLDS 1995 và cho đến nay, vấn đề này được sửa đổi bổ sung tại Điều 679 BLDS2005: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này”.
Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, trình tự và điều kiện thừa kế do pháp luật quy định. Điều 676BLDS 2005 quy định về những người thừa kế theo pháp luật được sắp xếp thành những hàng thừa kế nhất định, trong đó không quy định về quan hệ thừa kế giữa con riêng, cha dượng, mẹ kế mà vấn đề này được quy định riêng như một trường hợp đặc biệt tại Điều 679 BLDS 2005. Như vậy, để được thừa kế di sản của nhau thì giữa con riêng, bố dượng, mẹ kế phải đáp ứng được Điều kiện cụ thể: đó là giữa con riêng, bố dượng, mẹ kế phải có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như đối với cha mẹ đẻ của chính mình.
          Quan hệ giữa con riêng với cha dượng là quan hệ giữa người chồng với con riêng của vợ. Quan hệ giữa con riêng với mẹ kế là quan hệ giữa người vợ với con riêng của chồng. Các bên trong mối quan hệ này không có quan hệ huyết thống nên về nguyên tắc thì họ không phải là người thừa kế theopháp luật của nhau. Tuy nhiên, nếu họ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau thì họ được xác định tương tự như cha mẹ nuôi với con nuôi và vì thế họ sẽ là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của nhau nhưng không đương nhiên mang tính hai chiều như quan hệ thừa kế giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Sự chăm sóc, nuôi dưỡng đó được thể hiện ở chỗ:Không có sự phân biệt đối xử giữa con riêng của vợ của chồng với các con chung của họ. Cha dượng, mẹ kế coi con riêng của vợ, của chồng như con ruột của mình và không dừng lại ở mặt hình thức mà thể hiện được trên thực tế nghĩa vụ: yêu thương, nuôi dưỡng, giáo dục các con, chăm lo việc học tập và phát triển lành mạnh của con về thể chất, trí tuệ và đạo đức.
Quy định tại Điều 679 có tính nhân đạo và mang ý nghĩa giáo dục lòng nhân ái trong quan hệ giữa những thành viên trong gia đình mặc dù họ không cùng huyết thống và pháp luật không quy định họ là người giám hộtheo luật pháp của nhau. Khi có căn cứ xác định giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì con của người con riêng đó hoàn toàn có quyền được hưởng thừa kế thế vị cha, mẹ họ để nhận lại di sản của ông bà mình khi cha, mẹ họ chết trước hoặc cùng thời điểm với ông bà. Tất nhiên đây chỉ là trường hợp người thừa kế thế vị là con đẻ của người con riêng.
c) Thừa kế thế vị trong trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học
    Quy định tại Điều20 Nghị định số 12/2003/NĐ-CP về việc sinh con theo phương pháp khoa học:
1. Trẻ ra đời do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải được sinh ra từ người mẹ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân.
2. Những người theo quy định tại Khoản 1 Điều này được xác định là cha, mẹ đối với trẻ sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Như vậy, cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân được xác định là cha, mẹ đối với đứa trẻ sinh ra di thực hiện công nghệ hỗ trợ sinh sản vô tính. Người phụ nữ sống độc thân đương nhiên được xác định là mẹ đẻ của đứa trẻ và do đó vấn đề thừa kế thế vị di sản do ông, bà ngoại để lại khi người mẹ của đứa trẻ đó chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông bà ngoại. Việc xác định cha, mẹ cho con sinh ra trong trường hợp này căn cứ vào quan hệ hôn nhân hợp pháp giữa cha mẹ của đứa trẻ và pháp luật mặc nhiên thừa nhận quan hệ cha, mẹ và con giữa họ. Người con sinh ra theo phương pháp khoa học này có địa vị pháp lý tương tự như người con đẻ được sinh ra từ các cặp vợ chồng khác. Tuy nhiên tai Điều 21 Nghị định này cũng quy định:“Con được sinh ra do thực hiện công nghệ hỗ trợ sinh sản không được yêu cầu quyền thừa kế, quyền được nuôi dưỡng đối với người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi”.
2.3. Thừa kế thế vị trong trường hợp có vi phạm Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005
          Những người thừa kế theoquy định tại Khoản 1 Điều 643 bao gồm:
          - Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiên trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
          - Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
          - Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng.
          - Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sữa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản trái ý chí của người để lại di sản.
          Khi nghiên cứu về thừa kế thế vị, cần thiết phải đặt ra vấn đề trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản nhưng người con đó khi sống đã có một hành vi quy định tại Khoản 1 Điều 643 thì cháu có được thừa kế thế vị di sản của ông bà hay không. Dựa vào quy định tại Điều 677 BLDS 2005 quy định về thừa kế thế vị: cháu thế vị cha hoặc mẹ của cháu chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với ông bà để hưởng phần di sản của ông, bà mà nếu còn sống, cha hoặc mẹ của cháu sẽ được hưởng. Như vậy, pháp luật quy định điều kiệnđể cháu hoặc chắt được hưởng di sản của ông bà hoặc cụ là:
- Cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông bà nội, ngoại hoặc cụnội, ngoại thì cháu hoặc chắt được thừa kế thế vị nhận di sản của ông, bà nội, ngoại hoặc cụ nội, ngoại.
- Cha mẹ của cháu hoặc chắt phải được hưởng di sản nếu còn sống. Nếu còn sống, cha mẹ của cháu hoặc chắt đã có những hành vi quy định tại Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 thì dù cha mẹ của cháu hoặc chắt có chết trước hoặc cùng một thời điểm với ông bà hoặc cụ thì quan hệ thừa kế thế vị cũng không được phát sinh. 
IV. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ
1. Về thừa kế thế vị có nhân tố con nuôi
Trước khi Luật con nuôi 2010 được ban hành, mối quan hệ giữa nguời được nhận làm con nuôi với các thành viên trong gia đình người nhận làm con nuôi, mà đặc biệt là mối quan hệ giữa người được nhận làm con nuôi với cha, mẹ người nhận làm con nuôi được trình bày một cách cụ thể duy nhất trong Nghị quyết số 02/1990/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990: “Con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của cha, mẹ của người nuôi dưỡng cũng không đương nhiên trở thành anh, chị em của con đẻ người nuôi. Do đó, con nuôi không phải là người thừa kế theo pháp luật của cha, mẹ, con đẻ của người nuôi”. Từ quy định này, có thể thấy, con đẻ của người con nuôi thì vẫn coi là cháu của cha mẹ người nuôi dưỡng và được hưởng thừa kế thế vị phần tài sản mà đáng lẽ cha, mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Theo đó:
          - Trường hợp khi con nuôi của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì con đẻ của người con nuôi này có quyền hưởng thừa kế thế vị của ông bà
- Trường hợp khi người nhận con nuôi chết trước hoặc chết cùng thời điểm với cha mẹ đẻ của họ thì người con nuôi của họ không có quyền hưởng di sản thừa kế thế vị của ông bà thay cho cha mẹ mình.
Dựa trên suy luận rằng con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của cha mẹ người nuôi dưỡng để rút ra nhận xét: Người được nuôi dưỡng cũng không đương nhiên trở thành cháu của người đã nhận nuôi dưỡng cha mẹ của họ. Vì vậy khi con nuôi của người để lại di sản chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì con nuôi của người đó cũng không có quyền hưởng thừa kế thế vị nhận di sản của ông bà.
Đối với những quan hệ con nuôi được xác lập trước ngày 01/01/2011 nhưng đã đăng ký trong thời hạn từ 01/01/2011 đến hết ngày 31/12/2005 và những quan hệ con nuôi được xác lập từ ngày 01/01/2011 đến nay: việc xác định mối quan hệ giữa người được nhận nuôi với các thành viên khác trong gia đình người nhận nuôi được áp dụng theo quy định tại Điều 24 Luật nuôi con nuôi 2010
- Trong trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận thì việc chấm dứt hay tồn tại quyền và nghĩa vụ gì (kể cả quyền thừa kế) giữa cha mẹ đẻ đã làm cho con nuôi. Về nguyên tắc, cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có toàn quyền thỏa thuận với nhau về các quyền và nghĩa vụ làm cha mẹ đối với người con trên cơ sở đảm bảo mục đích việc nuôi con nuôi là vì lợi ích tốt nhất của người được nhận nuôi.
- Trường hợp cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận nhưng trong các vấn đề thỏa thuận không liên quan đến vấn đề thừa kế thì có thể xác định trong trường hợp này, quan hệ thừa kế giữa người được nhận nuôi với các thành viên trong gia đình người nhận nuôi không đương nhiên phát sinh. Hay nói cách khác chỉ tồn tại quan hệ thừa kế giữa người được nhận nuôi và người nhận nuôi con nuôi mà thôi, quan hệ thừa kế kế vị không phát sinh trong trường hợp này dù thỏa mãn Điều kiện chết trước hoặc chết cùng thời điểm như luật định.
- Trong trường hợp cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi không có thỏa thuận gì thì đây là trường hợp xác lập quan hệ con nuôi theo hình thức nuôi con nuôi đầy đủ. Kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi được xác lập thì quan hệ giữa con đã được cho làm con nuôi với cha mẹ đẻ và gia đình huyết thống đã chấm dứt hoàn toàn, kể cả quan hệ thừa kế, con nuôi được hưởng đầy đủ các quyền và nghĩa vụ trong gia đình cha mẹ nuôi, gồm cả quan hệ với các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi, kể cả quyền thừa kế theo luật.
Cần thầy quy định pháp luật tại Khoản 4 Điều 24 Luật con nuôi cần được bổ sung theo hướng: nếu giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi không có thỏa thuận gì khác thì kể từ ngày giao nhận con nuôi quan hệ giữa cha mẹ đẻ và gia đình huyết thống không còn quyền và nghĩa vụ pháp lý gì với nhau đồng thời quy định tại Điều 678 BLDS 2005 cũng cần bổ sung: con nuôi, cha nuôi, mẹ nuôi khi đáp ứng đủ Điều kiện theo quy định của pháp luật thì có quyền hưởng thừa kế di sản của nhau và còn được hưởng thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 677 Bộ luật này.
2. Về thừa kế thế vị trong trường hợp con riêng và cha dượng, mẹ kế
Chỉ cần có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con từ một phía là quan hệ thừa kế giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế đã phát sinh rồi. Nếu hiểu con riêng phải chăm sóc, nuôi dưỡng cha dượng mẹ kế ngược lại đòi hỏi mẹ kế, cha dượng cũng phải chăm sóc nuôi dưỡng con riêng thì quan hệ thừa kế mới phát sinh sẽ không giải quyết được một cách thỏa đáng quyền và lợi ích của các cá nhân này trong một số trường hợp cụ thể.Chẳng hạn cha dượng đã chăm sóc con riêng như con đẻ của mình trước khi cha dượng chết, con riêng vẫn còn nhỏ chưa thể chăm sóc, nuôi dưỡng cha dượng như cha đẻ. Việc quan tâm chăm sóc của cha dượng dành cho con riêng có thể thấy rằng cha dượng muốn con riêng sẽ được thừa kế tài sản của mình khi mình chết đi. Nếu hiểu như thế thì trong trường hợp này con riêng không nhận được di sản của cha dượng.Nếu con riêng còn nhỏ, chưa có khả năng lao động thì người cha dượng cũng không thể hưởng di sản của người con riêng để lại nếu như người con riêng đó chết.
Quan hệ thừa kế giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế phát sinh trên mối quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau như cha con, mẹ con. Tuy nhiên hiểu như thế nào là chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha con mẹ con thì hiện nay chưa có quy định cụ thể.
Pháp luật cũng không quy định rõ ràng để chăm sóc nhau như cha con mẹ con thì con riêng và cha dượng mẹ kế có nhất thiết phải sống chung với nhau. Có nhiều trường hợp con ở xa nhưng vẫn quan tâm giúp đỡ cha dượng, mẹ kế bằng cách gửi tiền cũng như vật chất khác. Từ những vướng mắc trên, pháp luật nên có những quy định cụ thể về việc xác định thế nào là chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con không phụ thuộc vào nơi cư trú củ những thành viên này, chỉ cần trên thực tế giữa họ có những hành vi thể hiện sự quan tâm, chăm sóc, yêu thương lẫn nhau.
Khi xây dựng vấn đề thừa kế giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế cần quan tâm đến trường hợp nếu khi còn sống, con riêng của vợ hoặc chồng đã có một trong các hành vi quy định tại Khoản 1Điều 643 BLDS 2005 đối với cha dượng, mẹ kế thì trong trường hợp đó con riêng đó chết trước hoặc chết cùng thời điểm với cha dượng mẹ kế thì con của người con riêng đó không được thừa kế thế vị của ông bà là cha dượng, mẹ kế của cha mẹ cháu. Vì con riêng và cha dượng mẹ kế không có mối quan hệ huyết thống và nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau là nghĩa vụ không bắt buộc nên quy định quan hệ thừa kế thế vị sẽ không phát sinh nếu như cha mẹ của cháu còn sống đã có những hành vi trái pháp luật và đạo đức xã hội như quy định tại Khoản 1.
Việc xác định những nhân tố để con riêng có trở thành người thừa kế theo pháp luật của cha dượng, mẹ kế có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xác định thừa kế thế vị có phát sinh hay không trong trường hợp người con riêng đó có con nhưng đã chết hoặc chết cùng thời điểm với mẹ kế, cha dượng. Vì vậy, quy định tại Điều 679 cần phải sửa đổi bổ sung để phù hợp:
1. Con riêng của một người với vợ hoặc chồng của người đó, nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con mẹ con từ một phía hoặc từ cả hai phíathì được thừa kế di sản của nhau theo hàng thừa kế thứ 1 mà không phụ thuộc vào nơi cư trú.
2. Những người xác định trong Khoản 1 Điều này còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 677 Bộ luật này
3. Thừa kế thế vị trong trường hợp con sinh ra do phương pháp khoa học
          Trong trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học thì giữa con và cha mẹ thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có quan hệ xác định như cha mẹ đối với sinh đẻ bình thường và họ có quyền hưởng thừa kế của nhau. Vì vậy người con sinh ra theo phương pháp khoa học chết trước hoặc cùng một thời điểm với cha, mẹ thực hiện phương pháp hỗ trợ sinh sản thì con, cháu của người con sinh ra theo phương pháp khoa học ấy được thừa kế thế vị.
Người con sinh ra theo phương pháp khoa học không được quyền yêu cầu thừa kế, quyền được nuôi dưỡng đối với người cho tinh trùng, cho noãn, cho phối. Vì vậy thừa kế thế vị đương nhiên không đặt ra giữa người con được sinh ra theo phương pháp khoa học và người cho tinh trùng, cho noãn..
Cũng từ vấn đề con sinh ra theo phương pháp khoa học đặt ra việc xác định tư cách pháp lý của cha mẹ và con sinh ra trong trường hợp này cũng trở thành một yêu cầu bức thiết đối với pháp luật. Nếu người vợ thực hiện sinh con theo phương pháp khoa học mà người cho tinh trùng không phải là chồng mà là tinh trùng của người khác nhưng người chồng không thừa nhận đó là con chung của vợ chồng mà đó chỉ là con riêng của vợ thì sao? Điều này liên quan đến vấn đề xác định người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất, cụ thể là xác định cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ. Vì thế, pháp luật cũng cần điều chỉnh cụ thể vấn đề trên. Hay nếu người cha chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với ông bà nội, cha đã gửi tinh trùng vào ngân hàng tinh trùng và sau đó mẹ đã lấy tinh trùng đó để thụ thai, đứa trẻ được sinh ra sau khi ông bà chết thì có đặt ra vấn đề thừa kế thế vị không? Đứa bé vẫn có quyền được thừa kế thế vị ông bà. Theo em, quy định tại Điều 635 cần sửa đổi bổ sung: “Người thừa kế là cá nhân phải còn sống vào thời điểm được mở thừa kế hoặc sinh và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Điều kiện thành thai trước khi người để lại di sản chết không bắt buộc đối với cá nhân sinh ra và còn sống theo phương pháp khoa học…”

4. Thừa kế thế vị trong trường hợp có hành vi vi phạm tại Khoản 1 Điều 643

Pháp luật nên quy định cho cháu và chắt vẫn được hưởng thừa kế thế vị di sản của ông bà hoặc cụ để lại dù trước đó cha mẹ của họ lúc sống đã có hành vi vi phạm Khoản 1 Điều 643. Trừ trường hợp chính người cháu đó bị truất quyền hưởng di sản hoặc bị tước quyền hưởng di sản do có hành vi quy định tại Khoản 1. Bởi cháu chắt không có lỗi và cũng không có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về hành vi do cha mẹ mình gây ra. Quyền thừa kế thế vị của các cháu hoặc các chắt không thể bị pháp luật tước bỏ khi mà giữa cha mẹ và các con hoàn toàn chịu trách nhiệm hình sự với tư cách cá nhân và hành vi của họ hoàn toàn độc lập với nhau. Nếu chỉ hiểu một cách máy móc là cha hoặc mẹ của cháu khi còn sống không có quyền hưởng di sản thì cho dù cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt tuy có chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông bà nội, ngoại hoặc các cụ nội, ngoại thì cháu cũng không được thừa kế thế vị là sa vào tình trạng “quýt làm, cam chịu”, trái với bản chất của pháp luật thừa kế hiện đại và trái với truyền thống, tập quán, quan niệm về thừa kế thế vị trong nhân dân.
Để tránh sự hiểu lầm và áp dụng sai, xâm phạm đến quyền, lợi ích của người thừa kế thế vị, đồng thời cũng qua việc sửa đổi đó nhằm để đảm bảo tính chất nhất thể hóa của pháp luật nói chung và những quy định về thừa kế thế vị nói riêng, theo ý kiến của Tiến sĩ Phùng Trung Tập viết trong sách Luật Thừa kế Việt Nam của NXB Hà Nội, Điều 677 BLDS 2005 chỉ nên bỏ cụm từ: “thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống” (đoạn 1) và cũng bỏ cụm từ tương tự tại đoạn 2 đối với chắt. Như vậy, theo đó điều kiện để các cháu, chắt có thể thừa kế thế vị cha mẹ mình nhận di sản của ông bà hoặc cụ chỉ cần quy định điều kiện cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản là quan hệ thừa kế thế vị đã phát sinh không cần thiết khi còn sống cha và mẹ của cháu hoặc chắt phải có quyền hưởng di sản thừa kế của người để lại di sản. Đồng thời, Tiến sĩ cũng có ý kiến vềĐiều 677 nên sửa lại như sau: Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng 1 thời điểm với người để lại di sản thì cháu thay thế bị trí của cha hoặc mẹ mình để hưởng di sản của ông, bà; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được thay thế vị trí của cha hoặc mẹ mình để hưởng di sản của các cụ.
Các cháu hoặc các chắt được thừa kế thế vị không phụ thuộc vào trường hợp cha hoặc mẹ có bị kết án về một trong các hành vi theo quy định tại Khoản 1 Điều 643 Bộ luật này.
KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng, quyền thừa kế nói chung và thừa kế thế vị nói riêng từ năm 1945 cho đến nay không ngừng được củng cố, mở rộng và được bảo vệ theo các nguyên tắc nhất quán là tôn trọng ý chí của công dân trong việc định đoạt tài sản. Hiện nay, có nhiều trường hợp người có di sản chết đi không để lại di chúc do người này lập ra là hợp pháp. Vì vậy, việc xác định ai là là người được hưởng thừa kế phải có những quy định của pháp luật.Chính vì vậy, việc đưa ra những quy định cụ thể, phù hợp và không ngừng hoàn thiện những quy định đó để bảo vệ cho quyền lợi của người được hưởng thừa kế là rất quan trọng. Những quy định về quyền thừa kế của công dân Việt Nam qua các thời kỳ đã và đang là động lực thúc đẩy sản xuất, tạo ra nhiều nhất của cải vật chất cho xã hội, góp phần đưa nền kinh tế đất nước ta phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn./.





















Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét