1. Tài sản chung của vợ chồng
1.1. Khái niệm tài sản chung vợ chồng
Việc xác định tài sản chung của vợ chồng phải
dựa vào nguồn gốc phát sinh tài sản. Điều 27 Luật HN&GĐ quy định cụ thể tài
sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản sau: Tài sản do vợ chồng tạo ra,
thu nhập do lao động hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân; thu
nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: có thể là tiền lương,
tiền thưởng, tiển trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ chồng có được hoặc tài sản mà
vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định từ Điều 239 đến 244 BLDS năm
2005; các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng thu nhập nói trên; tài sản mà vợ
chồng được tặng cho chung hoặc được thừa kế chung; tài sản mà vợ chồng có trước
thời kỳ hôn nhân hoặc được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân
nhưng vợ chồng đã thỏa thuận xác nhập vào khối tài sản chung hoặc theo pháp luật
quy định là tài sản chung; quyển sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết
hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được
trước khi kết hôn được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung của vợ chồng khi có
thỏa thuận; đối với những tài sản mà phải đăng ký quyền sở hữu như nhà ở, quyền
sử dụng đất và các tài sản có giá trị lớn khác phải ghi tên cả hai vợ chồng.
Đây chính là căn cứ pháp lý xác định tài sản chung của vợ chồng khi có tranh chấp.
1.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với
tài sản chung
Theo Luật HN&GĐ năm 2000 thì quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung được quy định như sau:
Thứ nhất,
theo Khoản 1 Điều 28 thì vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản
lý và sử dụng tài sản chung.
Thứ hai,
theo Khoản 2 điều 28 thì quyền bình đẳng
của vợ chồng đối với khối tài sản chung thể hiện trong việc xác lập giao dịch
dân sự có liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất
của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng
bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng
theo Khoản 1 điều 29 luật này.
Thứ ba,
đối với giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản nhưng giá trị tài sản không lớn
hoặc dùng để phục vụ nhu cầu thiết yếu hằng ngày cho gia đình thì chỉ cần do một
bên vợ hoặc chồng thực hiện đương nhiên được coi là có sự đồng ý của bên kia.
Trong trường hợp vì lý do nào đó mà chỉ một bên vợ chồng thực hiện giao dịch
dân sự có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt
thiết hàng ngày thì bên kia phải chịu trách nhiệm liên đới (Điều 25 Luật
HN&GĐ)
1.3. Nguyên tắc chia tài sản giữa vợ chồng
theo luật định
Các trường hợp chia tài sản vợ chồng: chia
tài sản vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết, chia tài sản chung vợ chồng ly hôn
a) Chia tài sản vợ chồng trong thời kì hôn
nhân:
* Điều kiện: Theo khoản 1 Điều 29 quy
định thì chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại được tiến hành
trong các trường hợp sau:
Thứ nhất,
vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng: xuất phát từ việc tôn trọng quyền tự do kinh
doanh của cá nhân, nếu một trong hai vợ chồng muốn đầu tư kinh doanh riêng thì
có thể chia tài sản chung của vợ chồng, tạo điều kiện cho vợ chồng có tài sản
riêng làm vốn đầu tư kinh doanh,
Thứ hai, trường hợp vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ
dân sự riêng mà họ không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thực
hiện nghĩa vụ thì họ có thể chia tài sản chung để giúp người có nghĩa vụ thực
hiện nghĩa vụ của mình,
Thứ ba, Việc
chia tài sản chung vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không
được chấp nhận.
* Nguyên tắc chia: Chia tài sản chung
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trước hết do vợ chồng thỏa thuận. Nếu không thỏa
thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Hậu quả pháp lý:
Quan hệ nhân thân: Sau khi chia tài sản
chung, về mặt pháp lý, quan hệ nhân thân của vợ chồng không có gì thay đổi. Vợ,
chồng vẫn có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ về nhân thân đối với nhau và với gia
đình như nghĩa vụ chung thủy, thương yêu, chăm sóc nhau,
cùng nhau xây dựng gia đình no ấm…
Quan hệ tài sản: Tài sản chung đã chia trở
thành tài sản riêng của vợ, chồng. Phần tài sản chung còn lại chưa chia và hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
b) Chia tài sản vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết
* Điều kiện: Điều 31 Luật HN&GĐ
quy định vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật
về thừa kế. Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên
còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ
định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người
khác quản lý. Nếu yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng
nghiệm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên
còn còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế
được hưởng nhưng cho chia di sản trong thời hạn nhất định; nếu hết thời hạn do
Tòa án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa
kế khác có quyền yêu cầu tòa án cho chia di sản thừa kế.
* Nguyên tắc chia: Pháp luật hiện hành
không quy định về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng
chết.
* Hậu quả pháp lý: Sau khi chia tài sản
chung, tài sản của người chồng hoặc vợ còn sống do người đó toàn quyền sử dụng,
định đoạt. Tài sản của vợ, chồng đã chết trở thành di sản của người đó và được
chia theo quy định của pháp luật thừa kế. Trong trường hợp người chồng hoặc vợ
trước đó bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết nay có quyết định hủy bỏ tuyên bố chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết
hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân (quan hệ nhân thân và tài sản) đương
nhiên được khôi phục.
c) Chia tài sản vợ chồng khi vợ chồng ly hôn
* Điều
kiện: Khi ly hôn, vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng được đặt ra như một
tất yếu vì ly hôn làm chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ chồng, chấm dứt cơ sở
hình thành, phát triển của khối tài sản chung.
* Nguyên tắc chia: Theo quy định tại
Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000, khi ly hôn tài sản chung của vợ chồng về
nguyên tắc được chia đôi. Tuy nhiên, để đảm bảo thanh toán tài sản chung được
công bằng, hợp lý Tòa án cần xem xét công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo
lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung, hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng
tài sản …để quyết định chia tài sản chung bằng hiện vật hay giá trị, hoặc chia
loại tài sản nào cho phù hợp. Khi chia quyền sử dụng đất, nhà ở phải đồng thời
kết hợp với các nguyên tắc đặc thù khác để phù hợp với các quy định pháp luật đất
đai, nhà ở…tạo lập, duy trì, phát triển tài sản nảy. Lao động của vợ chồng
trong gia đình được coi như lao động có thu nhập,
* Hậu
quả pháp lý: Chế độ tài sản chung của vợ chồng cũng hoàn toàn chấm dứt. Tài
sản chung của vợ chồng sau khi chia cho vợ, chồng sẽ trở thành tài sản riêng của
mỗi người và chịu sự điều chỉnh bởi các quy định pháp luật về sở hữu riêng.
NGUỒN: TƯ VẤN LUẬT AN SINH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét