Trái phiếu là loại chứng khoán mà CTCP sử dụng
để huy động vốn vay trung hạn và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển sản
xuất, kinh doanh của CTCP
Quyền phát hành trái phiếu của CTCP được
quy định tại Khoản 1 Điều 88 LDN 2005 như sau: “CTCP có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại
trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty”. Có nghĩa
là trong quá trình hoạt động, CTCP có thể lựa chọn phát hành nhiều loại chứng
khoán khác nhau như: trái phiếu thông thường, trái phiếu chuyển đổi…để huy động
vốn vay cho mình.
Theo Khoản 3 Điều 6 LCK 2006: “Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức
phát hành”. Nếu cổ phiếu là chứng khoán xác nhận quyền sở hữu cổ phần trong
CTCP thì trái phiếu là chứng khoán chỉ xác nhận quyền người sở hữu được trả nợ
gốc và lãi suất ấn định trong trái phiếu khi đến hạn. Do đó, người mua trái
phiếu của CTCP không có quyền tham gia quyết định các hoạt động của công ty và
cũng không trở thành cổ đông của công ty như việc mua cổ phiếu.
Dù phát hành trái phiếu không làm ảnh hưởng
tới cơ cấu của CTCP và địa vị của các cổ động hiện hữu nhưng nó lại ảnh hưởng
tới sự tồn tại, hoạt động của công ty cũng như trách nhiệm của các cổ đông đối
với khoản nợ của công ty.
2.1. Phương thức phát
hành của trái phiếu
Theo LCK 2006, CTCP có quyền phát hành trái
phiếu theo hai phương thức: phát hành ra công chúng và phát hành riêng lẻ. Phát
hành trái phiếu theo phương thức riêng lẻ thì tuân thủ theo quy định của LDN
2005. Còn với phát hành trái phiếu ra công chúng thì luật không phân biệt về
hình thức phát hành lần đầu và phát hành thêm trái phiếu giống như phát hành cổ
phiếu.
2.2. Điều kiện phát hành
trái phiếu
a)
Phát hành trái phiếu ra công chúng
Ngoài việc phải thỏa mãn
các điều kiện về vốn điều lệ, kết quả kinh doanh, kế hoạch huy động cũng như sử
dụng vốn huy động, CTCP còn phải đáp ứng thêm các điều kiện khác như: không có
các khoản nợ quá hạn trên 1 năm, phải có cam kết thực hiện nghĩa vụ của công ty
với nhà đầu tư. Phương án phát hành trái phiếu ra công chúng chỉ cần có sự
thông qua của Hội đồng quản trị thay vì phải được sự chấp thuận của Đại hội
đồng cổ đông như trong phát hành cổ phiếu ra công chúng. Do việc phát hành trái
phiếu ra công chúng không ảnh hưởng tới vị thế của cổ đông hiện hữu mà chỉ ảnh
hưởng tới khả năng tài chính của công ty. Vì vậy, chỉ cần hội đồng quản trị với
tư cách là cơ quan quản lý của công ty thông qua.
b)
Phát hành trái phiếu riêng lẻ
Khoản 2 điều 88 LDN 2005 đã đưa ra các
trường hợp CTCP không được phát hành trái phiếu:
1.
Không thanh toán đủ cả gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành, không thanh toán
hoặc thanh toán không đủ các khoản nợ đến hạn trong ba năm liên tiếp trước đó
2.
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế bình quân của ba năm liên tiếp trước đó không cao
hơn mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu định phát hành.
Quy định này được đưa ra để loại bỏ việc
tham gia phát hành trái phiếu của những CTCP không có đủ năng lực trả nợ nhằm
ngăn chặn rủi ro tiềm tàng cho các nhà đầu tư. Vì phát hành trái phiếu là một
phương thức vay nợ có bảo đảm của CTCP nhưng người cho vay lại chỉ được cầm một
tờ chứng chỉ mà không phải là tài sản bảo đảm. Do đó, nếu CTCP mất khả năng trả
nợ thì người mua trái phiếu của CTCP sẽ gặp khó khăn như những người đi vay tài
sản không có bảo đảm khác.
Dưới
góc độ của một hoạt động phát hành chứng khoán và hoạt động vay vốn thì việc
phát hành trái phiếu riêng lẻ của CTCP còn phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Đáp ứng yêu cầu về thời hạn hoạt động
kinh doanh tối thiểu.Thông thường là ít nhất 1 năm để có thể chứng minh được
thực lực của CTCP trong thời gian đã qua và khẳng định tiềm lực của CTCP trong
thời gian sắp tới.
- Phải có báo cáo tài chính của năm liền kề
trước năm phát hành được kiểm toán để đáp ứng yêu cầu về tài chính minh bạch.
- Kinh doanh có lãi ở năm liền kề trước năm
phát hành.
- Có phương án phát hành trái phiếu riêng
lẻ đã được Hội đồng quản trị công ty thông qua.
2.3. Thủ tục tiến hành
a)
Phát hành trái phiếu ra công chúng: gồm 3 bước là đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng, công bố
thông tin trước khi chào bán và phân phối chứng khoán. Đối với hồ sơ đăng ký chào
bán trái phiếu chỉ cần có quyết định của Hội đồng quản trị. Và phải có thêm bản
cam kết thực hiện nghĩa vụ của CTCP phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện
phát hành, tham toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các
điều kiện khác.
b)
Phát hành trái phiếu riêng lẻ
LDN không quy định.Song với bản chất phát
hành trái phiếu riêng lẻ là phát hành trái phiếu để vay vốn của những nhà đầu
tư định trước nên nó khá giống với hoạt động vay thông thường. Bao gồm 2 bước:
công bố thông tin trước khi chào bán và phân phối trái phiếu
- Công bố thông tin
trước khi phát hành: nhằm đảm bảo hoạt động phát hành công khai, minh bạch,
công bằng và bảo vệ quyền cũng như lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Bao
gồm: công khai báo cáo tài chính đã được kiểm toán của năm trước năm phát hành
làm cơ sở cho nhà đầu tư; công bố quyền lợi của người mua trái phiếu và cam kết
của mình đối với người sở hữu trái phiếu.
- Phân phối trái phiếu:
thông qua công ty hoặc tổ chức trung gian. Thông thường việc phân phối trái
phiếu riêng lẻ được thực hiện theo phương thức đầu thấu. Việc đấu thầu trái
phiếu có thể được tiến hành trực tiếp tại công ty hoặc thông qua tổ chức trung
gian hoặc qua trung tâm giao dịch chứng khoán
Ngoài 2 phương thức huy động
vốn nêu trên CTCP còn có thể huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng.
Để
huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng, công ty phải đáp ứng được
các điều kiện: có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sử dụng vốn khả
thi và có tài sản bảo đảm cho khoản vay bằng biện pháp cầm cố, thế chấp hoặc được
bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với
ngân hàng. Ngoài ra, công ty có thể được ngân hàng cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản.
Có
hai hình thức cho vay vốn là vay có bản đảm và vay không có bảo đảm.
-
Vay có bảo đảm là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả
nợ của CTCP được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản
hình thành từ vốn vay của công ty hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản của công ty, tài sản hình thành từ vốn vay
và tài sản của bên bảo lãnh dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với tổ
chức tín dụng.
+
Thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng là việc CTCP dùng tài sản (bất động sản thuộc
sở hữu của mình) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng.
+
Cầm cố tài sản vay vốn ngân hàng là việc CTCP có nghĩa vụ giao tài sản (động sản
thuộc sở hữu của mình) cho ngân hàng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
+
Bảo lãnh vay vốn ngân hàng là việc bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay
cho CTCP nếu khi đến hạn trả nợ mà công ty không trả số nợ nợ vay cho ngân
hàng.
Khi
vay vốn có các biện pháp bảo đảm bằng tài sản trên, công ty và ngân hàng phải lập
hợp đồng bảo đảm. Hợp đồng bảo đảm có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc
chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
-
Vay
không có bảo đảm bằng tài sản: CTCP cũng có thể được ngân hàng lựa chọn cho vay
không có bảo đảm bằng tài sản khi cho vay
vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản
xuất khi
đáp ứng đủ các yêu cầu quy định của pháp luật.
Trên
thực tế nhiều doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng khó tiếp cận vốn vay
ngân hàng. Cho nên xuất hiện các công ty cho
thuê tài chính như một giải pháp để tài trợ vốn trung hạn và dài hạn cho
các doanh nghiệp.Cho
thuê tài chính là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là một tài sản cụ thể.Tổ
chức tín dụng chuyển giao cho khách hàng một tài sản cụ thể để bên thuê sử dụng
trong một thời gian nhất định. Bên thuê có nghĩa vụ trả toàn bộ tiền thuê theo
thoả thuận. Hầu hết các quyền năng của chủ sở hữu được chuyển giao cho bên
thuê.
Có
nhiều cách phân loại cho thuê tài chính. Tuy nhiên, để làm nổi bật bản chất tín
dụng, hoạt động cho thuê tài chính có thể được phân loại như sau:
-
Cho thuê tài chính không hoàn lại tài sản thuê: là phương thức cho thuê tài
chính mà theo đó, bên thuê có quyền sở hữu tài sản thuê khi chấm dứt hợp đồng
thuê. Khi
kết thúc hợp đồng, bên cho thuê có nghĩa vụ tiến hành các thủ tục pháp lý cần
thiết để chuyển giao quyền sở hữu cho bên thuê. Đối với phương thức này, số tiền
thuê thường không thấp hơn giá trị tài sản thuê tại thời điểm giao kết hợp đồng
và khi
chuyển giao quyền sở hữu, bên thuê chỉ phải thanh toán theo
giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực của tài sản tại thời điểm chuyển giao
-
Cho thuê tài chính có hoàn lại tài sản thuê là phương thức cho thuê tài sản mà theo
đó, tài sản thuê không đương nhiên được chuyển giao quyền sở hữu khi
chấm dứt hợp đồng thuê. Với phương thức cho thuê này, số tiền thuê có thể thấp
hơn giá trị của tài sản tại thời điểm thuê. Khi
kết thúc hợp đồng thuê, bên thuê có quyền thuê tiếp hoặc mua
lại tài sản thuê.
xem thêm: Thành lập công ty cổ phần
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét