Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2016

HUY ĐỘNG VỐN BẰNG PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU

Trái phiếu là loại chứng khoán mà CTCP sử dụng để huy động vốn vay trung hạn và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh của CTCP
            Quyền phát hành trái phiếu của CTCP được quy định tại Khoản 1 Điều 88 LDN 2005 như sau: “CTCP có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty”. Có nghĩa là trong quá trình hoạt động, CTCP có thể lựa chọn phát hành nhiều loại chứng khoán khác nhau như: trái phiếu thông thường, trái phiếu chuyển đổi…để huy động vốn vay cho mình.
            Theo Khoản 3 Điều 6 LCK 2006: “Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành”. Nếu cổ phiếu là chứng khoán xác nhận quyền sở hữu cổ phần trong CTCP thì trái phiếu là chứng khoán chỉ xác nhận quyền người sở hữu được trả nợ gốc và lãi suất ấn định trong trái phiếu khi đến hạn. Do đó, người mua trái phiếu của CTCP không có quyền tham gia quyết định các hoạt động của công ty và cũng không trở thành cổ đông của công ty như việc mua cổ phiếu.
            Dù phát hành trái phiếu không làm ảnh hưởng tới cơ cấu của CTCP và địa vị của các cổ động hiện hữu nhưng nó lại ảnh hưởng tới sự tồn tại, hoạt động của công ty cũng như trách nhiệm của các cổ đông đối với khoản nợ của công ty.
2.1. Phương thức phát hành của trái phiếu
            Theo LCK 2006, CTCP có quyền phát hành trái phiếu theo hai phương thức: phát hành ra công chúng và phát hành riêng lẻ. Phát hành trái phiếu theo phương thức riêng lẻ thì tuân thủ theo quy định của LDN 2005. Còn với phát hành trái phiếu ra công chúng thì luật không phân biệt về hình thức phát hành lần đầu và phát hành thêm trái phiếu giống như phát hành cổ phiếu.
2.2. Điều kiện phát hành trái phiếu
a) Phát hành trái phiếu ra công chúng
Ngoài việc phải thỏa mãn các điều kiện về vốn điều lệ, kết quả kinh doanh, kế hoạch huy động cũng như sử dụng vốn huy động, CTCP còn phải đáp ứng thêm các điều kiện khác như: không có các khoản nợ quá hạn trên 1 năm, phải có cam kết thực hiện nghĩa vụ của công ty với nhà đầu tư. Phương án phát hành trái phiếu ra công chúng chỉ cần có sự thông qua của Hội đồng quản trị thay vì phải được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông như trong phát hành cổ phiếu ra công chúng. Do việc phát hành trái phiếu ra công chúng không ảnh hưởng tới vị thế của cổ đông hiện hữu mà chỉ ảnh hưởng tới khả năng tài chính của công ty. Vì vậy, chỉ cần hội đồng quản trị với tư cách là cơ quan quản lý của công ty thông qua.
b) Phát hành trái phiếu riêng lẻ
            Khoản 2 điều 88 LDN 2005 đã đưa ra các trường hợp CTCP không được phát hành trái phiếu:
1. Không thanh toán đủ cả gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành, không thanh toán hoặc thanh toán không đủ các khoản nợ đến hạn trong ba năm liên tiếp trước đó
2. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế bình quân của ba năm liên tiếp trước đó không cao hơn mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu định phát hành.
            Quy định này được đưa ra để loại bỏ việc tham gia phát hành trái phiếu của những CTCP không có đủ năng lực trả nợ nhằm ngăn chặn rủi ro tiềm tàng cho các nhà đầu tư. Vì phát hành trái phiếu là một phương thức vay nợ có bảo đảm của CTCP nhưng người cho vay lại chỉ được cầm một tờ chứng chỉ mà không phải là tài sản bảo đảm. Do đó, nếu CTCP mất khả năng trả nợ thì người mua trái phiếu của CTCP sẽ gặp khó khăn như những người đi vay tài sản không có bảo đảm khác.
            Dưới góc độ của một hoạt động phát hành chứng khoán và hoạt động vay vốn thì việc phát hành trái phiếu riêng lẻ của CTCP còn phải đáp ứng các điều kiện sau:
            - Đáp ứng yêu cầu về thời hạn hoạt động kinh doanh tối thiểu.Thông thường là ít nhất 1 năm để có thể chứng minh được thực lực của CTCP trong thời gian đã qua và khẳng định tiềm lực của CTCP trong thời gian sắp tới.
            - Phải có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán để đáp ứng yêu cầu về tài chính minh bạch.
            - Kinh doanh có lãi ở năm liền kề trước năm phát hành.
            - Có phương án phát hành trái phiếu riêng lẻ đã được Hội đồng quản trị công ty thông qua.
2.3. Thủ tục tiến hành
a) Phát hành trái phiếu ra công chúng: gồm 3 bước là đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng, công bố thông tin trước khi chào bán và phân phối chứng khoán. Đối với hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu chỉ cần có quyết định của Hội đồng quản trị. Và phải có thêm bản cam kết thực hiện nghĩa vụ của CTCP phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, tham toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác.
b) Phát hành trái phiếu riêng lẻ
            LDN không quy định.Song với bản chất phát hành trái phiếu riêng lẻ là phát hành trái phiếu để vay vốn của những nhà đầu tư định trước nên nó khá giống với hoạt động vay thông thường. Bao gồm 2 bước: công bố thông tin trước khi chào bán và phân phối trái phiếu
- Công bố thông tin trước khi phát hành: nhằm đảm bảo hoạt động phát hành công khai, minh bạch, công bằng và bảo vệ quyền  cũng như lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Bao gồm: công khai báo cáo tài chính đã được kiểm toán của năm trước năm phát hành làm cơ sở cho nhà đầu tư; công bố quyền lợi của người mua trái phiếu và cam kết của mình đối với người sở hữu trái phiếu.
- Phân phối trái phiếu: thông qua công ty hoặc tổ chức trung gian. Thông thường việc phân phối trái phiếu riêng lẻ được thực hiện theo phương thức đầu thấu. Việc đấu thầu trái phiếu có thể được tiến hành trực tiếp tại công ty hoặc thông qua tổ chức trung gian hoặc qua trung tâm giao dịch chứng khoán
Để huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng, công ty phải đáp ứng được các điều kiện: có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sử dụng vốn khả thi và có tài sản bảo đảm cho khoản vay bằng biện pháp cầm cố, thế chấp hoặc được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng. Ngoài ra, công ty có thể được ngân hàng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.
Có hai hình thức cho vay vốn là vay có bản đảm và vay không có bảo đảm.
- Vay có bảo đảm là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của CTCP được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của công ty hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản của công ty, tài sản hình thành từ vốn vay và tài sản của bên bảo lãnh dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với tổ chức tín dụng.
+ Thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng là việc CTCP dùng tài sản (bất động sản thuộc sở hữu của mình) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng.
+ Cầm cố tài sản vay vốn ngân hàng là việc CTCP có nghĩa vụ giao tài sản (động sản thuộc sở hữu của mình) cho ngân hàng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
+ Bảo lãnh vay vốn ngân hàng là việc bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho CTCP nếu khi đến hạn trả nợ mà công ty không trả số nợ nợ vay cho ngân hàng.
Khi vay vốn có các biện pháp bảo đảm bằng tài sản trên, công ty và ngân hàng phải lập hợp đồng bảo đảm. Hợp đồng bảo đảm có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
- Vay không có bảo đảm bằng tài sản: CTCP cũng có thể được ngân hàng lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất khi đáp ứng đủ các yêu cầu quy định của pháp luật.
Trên thực tế nhiều doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng khó tiếp cận vốn vay ngân hàng. Cho nên xuất hiện các công ty cho thuê tài chính như một giải pháp để tài trợ vốn trung hạn và dài hạn cho các doanh nghiệp.Cho thuê tài chính là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là một tài sản cụ thể.Tổ chức tín dụng chuyển giao cho khách hàng một tài sản cụ thể để bên thuê sử dụng trong một thời gian nhất định. Bên thuê có nghĩa vụ trả toàn bộ tiền thuê theo thoả thuận. Hầu hết các quyền năng của chủ sở hữu được chuyển giao cho bên thuê.
Có nhiều cách phân loại cho thuê tài chính. Tuy nhiên, để làm nổi bật bản chất tín dụng, hoạt động cho thuê tài chính có thể được phân loại như sau:
- Cho thuê tài chính không hoàn lại tài sản thuê: là phương thức cho thuê tài chính mà theo đó, bên thuê có quyền sở hữu tài sản thuê khi chấm dứt hợp đồng thuê. Khi kết thúc hợp đồng, bên cho thuê có nghĩa vụ tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết để chuyển giao quyền sở hữu cho bên thuê. Đối với phương thức này, số tiền thuê thường không thấp hơn giá trị tài sản thuê tại thời điểm giao kết hợp đồng và khi chuyển giao quyền sở hữu, bên thuê chỉ phải thanh toán theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực của tài sản tại thời điểm chuyển giao

- Cho thuê tài chính có hoàn lại tài sản thuê là phương thức cho thuê tài sản mà theo đó, tài sản thuê không đương nhiên được chuyển giao quyền sở hữu khi chấm dứt hợp đồng thuê. Với phương thức cho thuê này, số tiền thuê có thể thấp hơn giá trị của tài sản tại thời điểm thuê. Khi kết thúc hợp đồng thuê, bên thuê có quyền thuê tiếp hoặc mua lại tài sản thuê.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét