Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2016

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA CTCP

CTCP có thể lựa chọn nhiều phương thức huy động vốn khác nhau như: phát hành cổ phiếu, phát hành trái phiếu, vay vốn ngân hàng, vay các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước...Tuy nhiên trong các phương thức huy động vốn nói trên thì phát hành cổ phiếu và phát hành trái phiếu là hai phương thức phản ánh được nét đặc trưng trong cơ cấu vốn của CTCP, đồng thời thể hiện được thế mạnh về khả năng huy động vốn của CTCP so với các loại hình doanh nghiệp khác. Vì vậy, LDN  cũng như các luật trước đó khi điều chỉnh vấn đề huy động vốn của CTCP chỉ đề cập đến hai phương thức này.

1. Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu

          Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu là một quyền năng cơ bản của CTCP. Phương thức này cho phép huy động có hiệu quả các nguồn tài chính trong xã hội để có được số vốn lớn và ổn định cho hoạt động của CTCP.Thực chất của phát hành cổ phiếu chính là việc CTCP chào bán cổ phần để huy động vốn.
          Theo LDN , cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của CTCP. Cổ phần của CTCP có thể tồn tại dưới hai loại là: cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Trong cổ phần ưu đãi lại bao gồm nhiều loại như: cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và các loại cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định. Còn cổ phiếu là sự biểu hiện về mặt hình thức của cổ phần. Cổ phiếu là chứng chỉ do CTCP phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Tùy từng loại cổ phiếu mà pháp luật hay Điều lệ công ty quy định phải ghi tên hay không. Mỗi cổ phiếu có thể xác nhận một cổ phần hay một số cổ phần, tuy nhiên về cơ bản thì một cổ phiếu gồm những nội dung sau: Tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty; Số và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Số lượng cổ phần và loại cổ phần; Mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ phiếu;Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá nhân; tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh của cổ đông là tổ chức đối với cổ phiếu có ghi tên; Tóm tắt về thủ tục chuyển nhượng cổ phần; Chữ ký mẫu của người đại diện theo phép luật và dấu của công ty; Số đăng ký tại sổ đăng ký cổ đông của công ty và ngày phát hành cổ phiếu; Các nội dung khác theo quy định tại LDN  đối với cổ phiếu của cổ phần ưu đãi.
          CTCP cần có sự cân nhắc cổ phần của từng loại được quyền chào bán. Bởi trên thực tế việc phát hành cổ phiếu có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông hiện hữu trong công ty và có thể làm thay đổi cơ cấu tổ chức trong CTCP.
1.1. Phương thức phát hành của cổ phiếu
LDN  quy định hai phương thức phát hành cổ phiếu đó là: phát hành cổ phiếu ra công chúng và phát hành cổ phiếu riêng lẻ. Tuy nhiên, các nội dung cụ thể của phát hành cổ phiếu ra công chúng, LDN  không trực tiếp điều chỉnh mà do pháp luật về chứng khoán, về thị trường chứng khoán điều chỉnh gồm điều kiện, phương thức, thủ tục chào bán.
a) Phát hành cổ phiếu ra công chúng
          Căn cứ vào Luật Chứng khoán về chào bán chứng khoản ra công chúng thì phát hành cổ phiếu ra công chúng thực hiện theo các phương thức sau đây:
1. Thông qua phương tiện thông tin đại chúng
2. Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
3. Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định.    
          Khi thực hiện phát hành cổ phiếu ra công chúng thì  CTCP được gọi là công ty đại chúng. Do được bán rộng rãi cho tất cả các nhà đầu tư có nhu cầu trong xã hội nên để bảo vệ các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư chưa có kinh nghiệm nên CTCP khi thực hiện phát cổ phiếu theo phương thức này phải chịu sự ràng buộc của pháp luật về chứng khoán. CTCP phải thực hiện chế độ báo cáo, công bố thông tin và chịu sự giám sát chặt chẽ giám sát của pháp luật. Về hình thức thì phát hành cổ phiếu ra công chúng được pháp luật phân biệt giữa phát hành cổ phiếu lần đầu và phát hành thêm cổ phiếu bổ sung.
b) Phát hành cổ phiếu riêng lẻ
          Trước đây, việc phát hành cổ phiếu riêng lẻ thường để chào bán cho những cổ đông trong CTCP nhằm huy động thêm vốn điều lệ. Nhưng hiện nay, việc chào bán cổ phiếu riêng lẻ không chỉ hướng tới các thành viên trong CTCP mà còn mở rộng ra các nhà đầu tư bên ngoài có nhu cầu. Do đó, để đảm bảo thị trường chứng khoán phát triển ổn định, sôi nổi và để đưa phương thức này đi vào khuôn khổ có sự quản lý của pháp luật tlẻ.
         có thể hiểu chào bán cổ phần riêng lẻ là việc chào bán cổ phần hoặc quyền mua cổ phần trực tiếp và không sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng cho một trong các đối tượng sau:
1. Các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp
2. Dưới 100 nhà đầu tư không phải nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp
          Thông thường các nhà đầu tư chứng khoán này là các khách hàng đặc biệt như các các công ty bảo hiểm, công ty đầu tư chứng khoán...So với cổ phiếu công chúng thì cổ phiếu riêng lẻ chỉ bán cho phạm vi các nhà đầu tư được chọn lọc từ trước với số lượng hạn chế, nhằm huy động thêm một lượng vốn nhỏ hoặc cần tăng vốn điều lệ mà không muốn thực hiện phát hành cổ phiếu ra công chúng (phải cần đến chi phí phát hành lớn).
1.2. Điều kiện phát hành cổ phiếu
          Vì việc phát hành cổ phiếu có ảnh hưởng to lớn tới hoạt động của thị trường chứng khoán và tác động tới cơ cấu tổ chức của CTCP nên LDN  yêu cầu CTCP phát hành phải đáp ứng được các điều kiện:
Đối với cổ phần phổ thông, LDN  quy định: “Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và phải thanh toán  đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Yêu cầu này đặt ra thường nhằm vào các CTCP mới thành lập và thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu. Đối với các công ty này, đây là thời điểm công ty chưa khẳng định được năng lực hoạt động của mình cũng như khả năng tài chính để bảo đảm an toàn trong các quan hệ với đối tác bên ngoài và với công chúng đầu tư. Do đó pháp luật phải đưa ra các quy định để gắn chặt quyền lợi và trách nhiệm của các cổ đông sáng lập với lợi ích của công ty và đề cao trách nhiệm của họ trong giai đoạn đầu thành lập CTCP đối với công chúng đầu tư.
          Giá chào bán cổ phiếu được LDN  quy định: “Giá chào bán cổ phần không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán hoặc giá được ghi trong sổ sách của công ty cổ phần tại thời điểm gần nhất”. Giá chào bán cổ phiếu là giá của cổ phiếu do CTCP tự xác định để công ty thực hiện bán đấu giá cổ phiếu trên thị trường hoặc để mời các nhà đầu tư mua cổ phiếu của mình. Còn giá cổ phiếu trên thị trường là giá giao dịch của cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Giá thị trường của cổ phiếu phản ánh giá trị thực của cổ phần. Bởi vậy, hiện nay LCK  chỉ quy định mệnh giá cho cổ phiếu chào bán lần đầu là 10.000 đồng để làm đại lượng xác định vốn điều lệ của CTCP khi thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu. Việc LDN  đưa ra giá chào bán cổ phần như trên là để đảm bảo việc chào bán cổ phiếu của CTCP cho các cổ đông được thực hiện một cách công bằng và hạn chế việc CTCP tạo ra các ưu thế cho các cổ đông có ưu đãi và những bất lợi cho các cổ đông khác.
          Bên cạnh quy định cứng về giá chào bán cổ phiếu ở trên thì LDN  vẫn đưa ra một vài ngoại lệ cho CTCP được chào bán cổ phần với giá thấp hơn quy định, đó là các trường hợp:
1. Cổ phần chào bán lần đầu tiên cho những người không phải là cổ đông sáng lập
2. Cổ phần chào bán cho tất cả cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ ở công ty
3. Cổ phần chào bán cho người môi giới hoặc người bảo lãnh. Trong trường hợp này, số chiết khấu hoặc tỷ lệ chiết khấu cụ thể phải được sự chấp thuận của số cổ đông đại diện cho ít nhất 75% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.
4. Các trường hợp khác và mức chiết khấu trong các trường hợp đó do Điều lệ công ty quy định.
          Ngoài ra, LDN cho phép nếu cổ đông của công ty không có nhu cầu thực hiện quyền ưu tiên mua cổ phiếu mới phát hành của công ty thì các cổ đông này được chuyển quyền ưu tiên mua của mình cho người khác để tạo điều kiện cho CTCP khi phát hành cổ phiếu riêng lẻ có thể bán hết số cổ phiếu dự định phát hành. Người mua cổ phiếu phải là những đối tượng đã được công ty xác định từ trước.
a) Phát hành cổ phiếu ra công chúng
CTCP phải đáp ứng các điều kiện sau:
Thứ nhất, CTCP muốn chào bán cổ phiếu phải có tiềm lực tài chính, thể hiện ở mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán cổ phiếu. Mức vốn điều lệ mà CTCP phải thỏa mãn là 10 tỉ VNĐ tính theo sổ sách ghi trên sổ kế toán.
Thứ hai, CTCP có nhu cầu chào bán cổ phiếu ra công chúng phải là công ty kinh doanh có hiệu quả. Điều đó phải được thể hiện cụt hể ở kết quả kinh doanh của công ty đó vào năm liền trước năm đăng ký chào bán. Kết quả kinh doanh của CTCP phải được xem xét trên cả hai phương diện: năm liền kề trước đó CTCP phải có lãi và công ty không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán cổ phiếu.
Thứ ba, CTCP dự định chào bán cổ phiếu ra công chúng phải có sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông về phương án phát hành và phương án sử dụng vốn huy động được từ đợt chào bán. Điều kiện này được đặt ra nhằm đảm bảo Đại hội đồng cổ đông của công ty phát hành được quyền quyết định cao nhất đối với định hướng phát triển của CTCP đã quy định trong LDN 
b) Phát hành cổ phiếu riêng lẻ
Theo Điều 8 Chương 3 của NĐ 01/2010/NĐ-CP thì điều kiện để CTCP có thể phát hành cổ phiếu riêng lẻ là:
Thứ nhất, phải là CTCP hoặc các doanh nghiệp chuyển đổi thành CTCP, ngoại trừ các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành CTCP.
          Thứ hai, phát hành cổ phiếu riêng lẻ không tác động tới sự thay đổi về quyền lợi cổ đông hiện hữu và cơ cấu tổ chức của CTCP như phát hành ra công chúng. Do đó, ngay trong quyết định thông qua phương án chào bán và phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán của đợt phát hành cổ phiếu riêng lẻ thì chỉ cần Hội đồng quản trị thông qua. Vì số lượng người mua nhất định nên trong phương án chào bán phải xác định rõ đối tượng và số lượng nhà đầu tư được chào bán dưới 100 nhà đầu tư và hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong vòng 01 năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán.
Thứ ba, có hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần riêng lẻ đầy đủ và hợp lệ gửi tới cơquan nhà nước có thẩm quyền chậm nhất 20 ngày trước ngày dự kiến thực hiện việc chào bán, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác.
Thứ tư, các đợt chào bán riêng lẻ phải cách nhau ít nhất sáu tháng.

Thứ năm, đảm bảo tuân thủ các quy định về tỷ lệ góp vốn, hình thức đầu tư, trong trường hợp có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét