Thứ Hai, 27 tháng 6, 2016

QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA ASEAN

 QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA ASEAN
I. Khái quát chung.
          Quan hệ đối ngoại của ASEAN là một mảng lớn trong các hoạt động của Hiệp hội; được hình thành từ năm 1973 và đã phát triển mạnh trong hơn 40 năm qua, phản ánh tính chất mở của Hiệp hội và đã hỗ trợ đắc lực cho mục tiêu an ninh và phát triển của ASEAN. Đế khẳng định tầm quan trọng của quan hệ đối ngoại, Hiến chương ASEAN đã có riêng một chương đề cập đến quan hệ đối ngoại của Hiệp hội, trong đó đã xác định các mục tiêu, nguyên tắc, định hướng, cơ chế và các vấn đề liên quan khác nhằm đẩy mạnh quan hệ đối ngoại của ASEAN.  
Các đối tác bên ngoài nhìn chung đều coi trọng và tranh thủ quan hệ với ASEAN cũng như tác động đến Hiệp hội cả về đa phương và song phương nhằm hỗ trợ chính sách và lợi ích của họ ở khu vực. Các đối tác đều cam kết ủng hộ và hỗ trợ ASEAN xây dựng Cộng đồng, thu hẹp khoảng cách phát triển và phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong các tiến trình khu vực ASEAN khởi xướng như ASEAN+3, EAS và ARF; hỗ trợ đáng kể về tài chính ở mức độ khác nhau. Gần đây, các đối tác này ngày càng quan tâm đến việc lồng ghép chính sách song phương và đa phương trong quan hệ với ASEAN do Hiệp hội ngày càng trở thành một thực thể chính trị-kinh tế gắn kết hơn. Đến nay đã có 27 nước cử Đại sứ về ASEAN.
Quan hệ đối ngoại của ASEAN bao gồm các khuôn khổ ASEAN+1, ASEAN+3, Cấp cao Đông Á (EAS) và Diễn đàn Khu vực ASEAN. Cụ thể gồm:
1/. Khuôn khổ ASEAN + 1 (với từng đối tác bên ngoài). ASEAN hiện có quan hệ đối thoại và hợp tác với 10 nước (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn độ, Pakistan, Ôt-xtrây-lia, Niu Di lân, Nga, Hoa Kỳ và Canada), 1 tổ chức khu vực là Liên minh Châu Âu (EU) và 1 tổ chức quốc tế là Liên Hợp Quốc.  ASEAN hiện là quan sát viên của LHQ và có quan hệ với nhiều tổ chức khu vực khác trên thế giới.
Về cơ chế hợp tác, đã hình thành ở nhiều cấp khác nhau từ quan chức đến Bộ trưởng và Lãnh đạo Cấp cao. Hiện nay, ASEAN có cơ chế họp Cấp cao hàng năm với Trung Quốc, Nhật bản, Hàn Quốc và Ấn độ (nhân dịp Cấp cao ASEAN thường niên); đã họp Cấp cao lần đầu tiên nhân dịp đặc biệt với Úc và Niu Di-lân (tháng 11/2004), với Nga (tháng 12/2005), với EU (tháng 11/2007), với LHQ (năm 2000 và 2005), với Hàn Quốc (tháng 6/2009), với Mỹ (11/2009). Hiện ASEAN đang thu xếp để có thể họp Cấp cao ASEAN-Nga lần thứ 2 và Cấp cao Kỷ niệm 35 năm lập quan hệ ASEAN-Niu Di lân trong năm 2010. 
Đến nay, ASEAN cùng với hầu hết các đối tác nói trên đã nhất trí hình thành các khuôn khổ đối tác chiến lược hoặc toàn diện mang  tính lâu dài, kèm theo các chương trình và kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện. Các chương trình/kế hoạch hành động đang được triển khai tích cực với nhiều biện pháp/hoạt động khác nhau, kể cả thỏa thuận lập các Khu vực mậu dịch tự do (FTA/CEP) giữa ASEAN với nhiều đối tác quan trọng như Trung Quốc, Nhật bản, Hàn Quốc, EU, Ấn Độ, Ôx-trây-lia và Niu Di-lân. ASEAN đã lập các Trung tâm ASEAN-Hàn Quốc, ASEAN-Nhật Bản nhằm thúc đẩy đầu tư, thương mại và du lịch và đã ký MOU lập Trung tâm ASEAN-Trung Quốc.
2/. Tiến trình ASEAN+3 (với ba nước Đông Bắc Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn quốc). Khuôn khổ này được hình thành năm 1997 với việc họp Cấp cao không chính thức lần đầu tiên giữa ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, và được chính thức hóa năm 1999 với việc thông qua Tuyên bố chung về Hợp tác Đông Á. ASEAN+3 ra đời xuất phát từ nhu cầu hợp tác của các nước khu vực nhằm đối phó với tác động của khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997.
Sau 10 năm, hợp tác ASEAN+3 đang phát triển nhanh cả về chiều rộng và chiều sâu, với sự hình thành 52 cơ chế hợp tác ở các cấp khác nhau, kể cả Cấp cao hàng năm (nhân dịp Cấp cao ASEAN). Các lĩnh vực hợp tác được mở rộng bao gồm cả an ninh-chính trị, kinh tế, tài chính-tiền tệ, nông nghiệp, khoa học và công nghệ, giao thông vận tải, năng lượng, môi trường, du lịch, công nghệ thông tin, y tế, lao động, văn hóa, tội phạm xuyên quốc gia và an sinh xã hội.
Tháng 1/2007, Lãnh đạo các nước liên quan đã ra Tuyên bố chung về Hợp tác Đông Á và (lần 2) và Kế hoạch hành động thực hiện kèm theo nhằm đề ra phương hướng và biện pháp gia tăng hợp tác, hướng tới mục tiêu lâu dài là xây dựng cộng đồng Đông Á; và ASEAN+3 được coi là khuôn khổ chính để tiến tới mục tiêu này. Các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN+3 đã thông qua Định hướng triển khai Chương trình công tác ASEAN+3 thực hiện Tuyên bố chung và Kế hoạch hành động.
Hợp tác kinh tế, tài chính-tiền tệ ASEAN+3 là lĩnh vực đạt kết quả tích cực, nhất là trong hợp tác xử lý hiệu quả tác động của Khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu. Với việc ra Tuyên bố về đối phó với khủng hoảng kinh tế và tài chính toàn cầu vào 2/6/2009, ASEAN+3 đã thể hiện quyết tâm của các nước tăng cường hợp tác thông qua các biện pháp cụ thể xử lý hiệu quả tác động tiêu cực của khủng hoảng đối với kinh tế khu vực. ASEAN+3 cũng nhất trí triển khai đa phương hóa Sáng kiến Chiềng Mai (đề xuất năm 2000) với quy mô vốn tăng từ 80 tỉ USD lên 120 tỉ USD trong năm 2009 và lập một cơ chế giám sát khu vực độc lập. Cơ chế Bảo hiểm tín dụng và Đầu tư trong Sáng kiến Thị trường trái phiếu Châu Á (đề xuất năm 2003) nhằm hỗ trợ phát hành trái phiếu bằng đồng bản tệ với khoản vốn ban đầu 500 triệu USD đã bắt đầu đi vào triển khai. Ngoài ra, ASEAN+3 đang xem xét khả năng lập Khu vực Mậu dịch tự do Đông Á (EAFTA) trên cơ sở Báo cáo nghiên cứu khả thi giai đoạn 2 về EAFTA của Kênh II.
ASEAN+3 cũng quyết tâm đẩy mạnh hợp tác đối phó với các thách thức toàn cầu như khủng hoảng lương thực, năng lượng, suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu, dịch bệnh truyền nhiễm… Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 12 (Thái Lan, 24/10/2009) đã thông qua Tuyên bố chung về Hợp tác An ninh lương thực và Phát triển năng lượng sinh học nhằm thể hiện quyết tâm trên. ASEAN+3 cũng tăng cường hợp tác thông qua một loạt sáng kiến và hoạt động như lập Quỹ Dự trữ gạo khẩn cấp ASEAN+3, hợp tác tìm kiếm các nguồn năng lượng sạch thay thế, giảm lượng khí thải, tăng khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, chuyển giao công nghệ sản xuất vắc-xin/thuốc giá rẻ và tăng lượng vắc-xin dự trữ phòng chống các dịch bệnh truyền nhiễm, chia sẻ và cập nhật thông tin về dịch cúm…
Quỹ Hợp tác ASEAN+3 (APTCF) đã được lập với số vốn ban đầu là 3 triệu USD nhằm tập trung nguồn lực hỗ trợ triển khai các biện pháp trong Kế hoạch Công tác ASEAN+3 (2007-2017) và tài trợ cho các dự án hợp tác khác trong khuôn khổ ASEAN+3.
3/. Cấp cao Đông Á (EAS). EAS ra đời tháng 12/2005 với sự tham gia của 16 thành viên gồm 10 nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật bản, Hàn quốc, Ấn Độ, Ôt-xtrây-lia và Niu Di-lân. Tại Hội nghị EAS đầu tiên, Lãnh đạo các nước đã ký Tuyên bố chung về Cấp cao Đông Á, trong đó đề ra mục tiêu, nguyên tắc, lĩnh vực và các phương thức chính cho hoạt động của EAS. Theo đó, EAS sẽ là diễn đàn của các Lãnh đạo đối thoại về các vấn đề chiến lược nhằm hỗ trợ mục tiêu xây dựng cộng đồng ở khu vực Đông Á; là một tiến trình mở và thu nạp, trong đó ASEAN giữ vai trò chủ đạo; bổ sung và hỗ trợ cho các diễn đàn khu vực khác hiện có, họp hàng năm do ASEAN chủ trì nhân dịp Cấp cao ASEAN.
Lãnh đạo các nước đã nhất trí xác định 5 lĩnh vực hợp tác ưu tiên gồm năng lượng, tài chính, giáo dục, thiên tai và bệnh dịch, tiến hành tiệm tiến và tận dụng các cơ chế hiện có của ASEAN (ASEAN+1, +3…). Đến nay, Cấp cao Đông Á đã họp 4 lần; chưa lập cơ chế hỗ trợ chính thức, nhưng đã tổ chức một số cuộc họp không thức ở kênh ngoại giao (Bộ trưởng Ngoại giao và cấp Quan chức cao cấp) và một số kênh khác thuộc các lĩnh vực ưu tiên như Hội nghị Bộ trưởng Môi trường EAS, Hội nghị Bộ trưởng Năng lượng EAS. Báo cáo nghiên cứu khả thi giai đoạn 2 về lập Đối tác Kinh tế toàn diện Đông Á (CEPEA) của Kênh II đã hoàn tất và trình lên Cấp cao Đông Á lần thứ 4 (Thái Lan, 25/10/2009)
ASEAN chưa quyết định về việc mở rộng EAS cũng như Quy chế quan sát viên của EAS. Hội nghị hẹp Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (4/2005) đề ra 3 tiêu chí tham gia EAS là: (i) là đối thoại đầy đủ của ASEAN; (ii) tham gia TAC; (iii) hợp tác hiệu quả với ASEAN.
4/. Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF).
Diễn đàn này được thành lập năm 1994, tạo ra khuôn khổ thích hợp cho ASEAN và các đối tác bên ngoài tiến hành đối thoại và hợp tác về các vấn đề chính trị-an ninh ở Châu Á-TBD ở cấp quan chức và Bộ trưởng Ngoại giao. Với 17 thành viên ban đầu, đến nay ARF đã có 27 thành viên, và đang có thêm nhiều quốc gia khác xin tham gia. ARF dự kiến sẽ trải qua ba giai đoạn phát triển theo tuần tự là : Xây dựng lòng tin (CBM) ; Ngoại giao phòng ngừa (PD) ; và Xem xét cách thức giải quyết xung đột. Đến nay, ARF đang chuyển giai đoạn từ CBM sang PD trong lúc vẫn tiếp tục thực hiện CBM. Các lĩnh vực đối thoại và hợp tác bao gồm cả các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống. Cùng với các quan chức ngoại giao, sự tham gia của các quan chức quốc phòng vào tiến trình ARF ngày càng sâu rộng và được nâng cấp dần (hiện ở cấp Thứ trưởng Quốc phòng). 
Hội nghị Bộ trưởng Diễn đàn ARF lần thứ 16 (tháng 7/2009) đã thông qua Tuyên bố Tầm nhìn ARF, văn kiện định hướng phát triển của ARF đến năm 2020. Nội dung của tài liệu này bao hàm các nguyên tắc cơ bản của ARF, định hướng và một số bước đi cụ thể xây dựng Diễn đàn.
II. Quan hệ cụ thể với các Bên Đối thoại
          1.  Quan hệ ASEAN-Úc và Niu Di-lân:
          ASEAN thiết lập quan hệ đối thoại với Úc từ năm 1974 và với Niu Di-lân từ năm 1975 với cơ chế đối thoại cấp Tổng Vụ trưởng. Cho đến nay quan hệ đối thoại và hợp tác đã và đang phát triển nhanh và tích cực. Tháng 11/2004 tại Viên-chăn, ASEAN đã tổ chức Cấp cao Kỷ niệm 30 năm quan hệ với Úc và Niu Di-lân, ký Tuyên bố chung, khẳng định ý chí chính trị và quyết tâm thúc đẩy quan hệ đối tác nhiều mặt, từ đó tạo đà thúc đẩy hơn nữa quan hệ trong tương lai. Niu Di-lân cũng đề nghị tổ chức Cấp cao ASEAN-Niu Di lân kỷ niệm 35 thiết lập quan hệ trong năm 2010 tại Việt Nam.
Năm 2005, Úc và Niu Dilân đã tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC). Năm 2007, ASEAN và Úc ký Tuyên bố chung Đối tác Toàn diện và Chương trình Hành động thực hiện Tuyên bố chung. Úc và Niu Dilân đều cam kết mạnh mẽ hỗ trợ ASEAN xây dựng cộng đồng, thu hẹp khoảng cách phát triển…
ASEAN duy trì cơ chế họp Bộ trưởng Ngoại giao hàng năm với Úc và Niu Di-lân trao đổi về các vấn đề chính trị - an ninh khu vực. Hợp tác kinh tế phát triển nhanh; ASEAN và Úc và Niu Di-lân đã lập cơ chế tham vấn giữa các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN và CER từ năm 1995. Năm 2000, các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN-Úc+Niu Di-lân đã quyết định lập Khuôn khổ Đối tác Kinh tế gần gũi AFTA-CER CEP với mục tiêu chính là tăng gấp đôi thương mại và đầu tư hai bên vào năm 2010. Hai bên đã ký Hiệp định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Úc+Niu Di-lân (AANZFTA) bên lề Cấp cao ASEAN-14 (Thái Lan, 27/2/2009).
Chương trình Hợp tác Phát triển ASEAN-Úc giai đoạn hai (AADCP II, 2008-2015) với mục tiêu hỗ trợ ASEAN thúc đẩy xây dựng Cộng đồng, liên kết kinh tế, thu hẹp khoảng cách và triển khai Hiến chương ASEAN, được thông qua tháng 2/2008, trong đó AusAID cam kết đóng góp 57 triệu đôla Úc. Tháng 7/2009, ASEAN và Úc đã ký MOU triển khai AADCP II. Úc cũng đóng góp 13 triệu đô la Úc cho Ủy hội sông Mê-kông và 1,2 triệu đô la Úc nhằm thúc đẩy thương mại trong Tiểu vùng Mêkông mở rộng. Với Niu Di-lân, hai bên nhất trí sẽ xây dựng dự thảo Khuôn khổ Hợp tác ASEAN-Niu Di-lân giai đoạn 2010-2015 nhằm hỗ trợ ASEAN xây dựng cộng đồng.
          2. Quan hệ ASEAN-Ca-na-đa:
Quan hệ đối thoại ASEAN-Ca-na-đa được lập năm 1977. Năm 1981, ASEAN và Ca-na-đa đã ký Hiệp định Hợp tác Kinh tế ASEAN-Ca-na-đa (ACECA), đặt nền tảng cho hợp tác thương mại và công nghiệp giữa hai bên, và năm 1993 lập cơ chế họp Ủy ban Hợp tác chung (JCC) để thúc đẩy các hoạt động hợp tác.
Quan hệ ASEAN-Ca-na-đa hiện đang có những tiến triển tích cực. Hai bên đã lập cơ chế Cuộc họp đối thoại thường kỳ ASEAN-Ca-na-đa để bàn về các biện pháp tăng cường quan hệ đối thoại hai bên. Hai bên đã thực kiện có kết quả Kế hoạch Công tác chung ASEAN-Ca-na-đa 2005-2007 gồm 17 lĩnh vực hợp tác về chính trị-an ninh, kinh tế và hợp tác phát triển. Tháng 7/2007, các Ngoại trưởng đã thông qua Kế hoạch Công tác chung ASEAN-Ca-na-đa lần thứ 2 cho giai đoạn 2007-2010. Hai bên cũng đang xúc tiến việc đàm phán nhằm ký kết Thoả thuận khung về Hợp tác Thương mại và Đầu tư ASEAN-Ca-na-đa (TIFA) để tạo khuôn khổ pháp lý nhằm tăng cường hợp tác thương mại và đầu tư giữa hai bên.
Tháng 7/2009, ASEAN và Canada đã thông qua Tuyên bố về Quan hệ Đối tác tăng cường để định hướng quan hệ hợp tác cho giai đoạn mới. Dự kiến Kế hoạch Hành động 2010-2015 triển khai Tuyên bố sẽ sớm được hai bên xây dựng để thông qua tại PMC 2010. Canada cũng bày tỏ nguyện vọng sớm tham gia Hiệp ước TAC.
          3. Quan hệ ASEAN-Trung Quốc:
Quan hệ đối thoại ASEAN-Trung Quốc được thiết lập năm 1991 và đang phát triển mạnh, toàn diện trên các lĩnh vực chính trị-an ninh, kinh tế và hợp tác chuyên ngành. Năm 2003, ASEAN và Trung Quốc đã thông qua Tuyên bố chung về Quan hệ Đối tác Chiến lược vì Hòa bình và Thịnh vượng, nâng quan hệ đối thoại và hợp tác lên một tầm cao mới và hiện đang tích cực triển khai Tuyên bố chung thông qua Chương trình Hành động cụ thể.
          ASEAN và Trung Quốc xác định 11 lĩnh vực hợp tác ưu tiên (gồm nông nghiệp, công nghệ thông tin và truyền thông, phát  triển nguồn lực, đầu tư hai chiều, phát triển Lưu vực Sông Mê Công, giao thông, năng lượng, văn hóa, du lịch, y tế cộng đồng và môi trường) và đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong triển khai thực hiện, nhất là về kinh tế-thương mại.
Về chính trị-an ninh, ASEAN và Trung Quốc đã ký một loạt thỏa thuận hợp tác, trong đó có Tuyên bố chung về Ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) ký năm 2002 và Tuyên bố chung ASEAN-Trung Quốc về Hợp tác trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống ký năm 2004. Trung Quốc là nước Đối thoại đầu tiên tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở khu vực Đông Nam Á (TAC) tháng 10/2003; Đồng thời, Trung Quốc cũng tích cực tham gia các tiến trình hợp tác do ASEAN khởi xướng và dẫn dắt như ARF, ASEAN + 3, EAS. Nhiều sáng kiến do Trung Quốc khởi xướng đã trở thành thông lệ như tổ chức Hội nghị Chính sách An ninh hàng năm, xây dựng quy chuẩn về phòng chống thiên tai trong ARF…
          Về kinh tế-thương mại, ASEAN và Trung Quốc hiện là bạn hàng mậu dịch lớn thứ 4 của nhau với giá trị thương mại 2 chiều tăng từ 59,6 tỉ USD năm 2003 lên 171,1 tỉ USD năm 2007 và đạt 192,5 tỉ USD năm 2008; đầu tư trực tiếp từ Trung Quốc vào ASEAN đạt 3,6 tỉ USD năm 2007; tổng đầu tư 2 chiều đến năm 2008 là 60 tỉ USD. Tháng 11/2002, hai bên đã ký Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện nhằm lập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) vào năm 2010 đối với Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippine, Xinh-ga-po và Thái lan và vào năm 2015 đối với 4 thành viên mới của ASEAN là Campuchia, Lào, Mianma và Việt Nam. Theo lộ trình lập ACFTA, ASEAN và Trung Quốc đã ký Hiệp định Thương mại Hàng hóa và Hiệp định về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp (11/2004) và từ đầu năm 2005 đã thực hiện chương trình “Thu hoạch sớm” trong khuôn khổ ACFTA. Hai bên đã ký Hiệp định Thương mại Dịch vụ tháng 1/2007 và Hiệp định Đầu tư tháng 8/2009. Hai bên cũng tích cực triển khai nhiều hoạt động xúc tiến trao đổi thương mại-đầu tư như tổ chức các Hội chợ EXPO ASEAN-Trung Quốc thường niên; lập Trung tâm ASEAN-Trung Quốc tại Bắc Kinh nhằm thúc đẩy thương mại, đầu tư và du lịch.
          Về hợp tác phát triển, ASEAN và Trung Quốc tích cực thúc đẩy hợp tác nông nghiệp, công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, phát triển nguồn nhân lực, văn hóa-xã hội, y tế cộng đồng, giao lưu nhân dân v.v… Hai bên đã ký các MOU và xây dựng các Chương trình/chiến lược hợp tác trong từng lĩnh vực cụ thể.
          4. Quan hệ ASEAN-Nhật:
Quan hệ đối thoại và hợp tác ASEAN-Nhật được tạo dựng năm 1973 và chính thức thiết lập từ năm 1977 với việc tổ chức diễn đàn ASEAN-Nhật lần đầu tiên. Quan hệ đối tác ASEAN-Nhật nhìn chung phát triển nhanh, toàn diện và thực chất. Tháng 12/2003 tại Tokyo, ASEAN và Nhật đã tổ chức Cấp cao kỷ niệm 30 năm quan hệ Lãnh đạo hai bên đã ký “Tuyên bố chung Tokyo về Quan hệ Đối tác ASEAN-Nhật Năng động và Bền vững trong Thiên niên kỷ mới” cùng với Kế hoạch hành động kèm theo, đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ đối tác và tạo tiền đề cho quan hệ đối tác toàn diện ASEAN-Nhật.
Về chính trị-an ninh, hai bên đã ký Tuyên bố chung về hợp tác chống khủng bố quốc tế (11/2004) và triển khai nhiều hoạt động hợp tác trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống. Nhật đã tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC); tham gia tích cực khuôn khổ hợp tác ASEAN+3, EAS và ARF.
Hợp tác kinh tế ASEAN-Nhật ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nhật Bản hiện là đối tác thương mại lớn nhất và là một trong những nhà đầu tư lớn nhất của ASEAN. Tháng 10/2003, các nhà Lãnh đạo ASEAN và Nhật đã ký Khuôn khổ Đối tác Kinh tế Toàn diện ASEAN-Nhật (CEP) nhằm tăng cường liên kết kinh tế giữa ASEAN và Nhật, thúc đẩy tự do hóa, tạo thuận lợi trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa ASEAN và Nhật cũng như tạo khuôn khổ đầu tư minh bạch và tự do hơn. Khuôn khổ này cũng bao gồm việc thành lập khu vực mậu dịch tự do (FTA) giữa ASEAN và Nhật với mục tiêu dự kiến hoàn thành trước năm 2012, riêng các nước CLMV được lùi thêm 5 năm (2017). Trên cơ sở đó, ASEAN và Nhật Bản đã đàm phán và ký Hiệp định khung về Đối tác Kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản (AJCEP) ngày 14/4/2008.
Về hợp tác phát triển, Nhật là một trong những nước đối thoại hỗ trợ lớn nhất cho ASEAN trong việc xây dựng cồng đồng và thu hẹp khoảng cách phát triển  thông qua Sáng kiến Liên kết ASEAN (IAI) và Kế hoạch Hành động Viên Chăn (VAP) cũng như các sáng kiến phát triển tiểu vùng và các chương trình hợp tác phát triển như Chương trình trao đổi ASEAN-Nhật (JAEP), Quỹ trao đổi ASEAN-Nhật, Quỹ liên kết ASEAN-Nhật (JAIF)… 
5. Quan hệ ASEAN-Hàn Quốc:
ASEAN và Hàn Quốc lập quan hệ đối thoại theo lĩnh vực từ năm 1989 và chính thức lập quan hệ đối thoại đầy đủ từ năm 1991. Quan hệ đối thoại và hợp tác ASEAN-Hàn Quốc hiện đang phát triển nhanh cả về chiều rộng và chiều sâu, với nhiều chương trình, dự án cụ thể và có hiệu quả. ASEAN và Hàn Quốc đã ký Tuyên bố chung về Quan hệ Đối tác Hợp tác toàn diện (Viên-chăn, 11/2004) nhằm tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế thương mại cũng như giúp ASEAN thu hẹp khoảng cách phát triển. Hai bên đã họp Cấp cao kỷ niệm 20 năm lập quan hệ (tháng 6/2009), cam kết thúc đẩy quan hệ đối thoại phát triển hơn nữa.
Hợp tác ASEAN-Hàn Quốc trên lĩnh vực chính trị -an ninh tiến triển thuận lợi, tập trung vào hợp tác trên các vấn đề an ninh phi truyền thống với nhiều dự án tăng cường năng lực, chia sẻ thông tin và hợp tác công nghệ. ASEAN và Hàn Quốc đã ký Tuyên bố chung về Hợp tác chống khủng bố quốc tế (7/2005). Hàn Quốc cũng đã tham gia Hiệp ước TAC năm 2004.
Về thương mại và đầu tư, Hàn Quốc hiện là đối tác thương mại lớn thứ 4 của ASEAN và là một trong 10 nước đầu tư lớn nhất vào ASEAN. ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ 5 của Hàn Quốc. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-Hàn Quốc (tháng 12/2005), hai bên đã nhất trí thành lập Khu vực mậu dịch tự do (FTA) ASEAN-Hàn Quốc với lộ trình cụ thể là năm 2010 với Brunei, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philipin, Xinh-ga-po và Thái Lan; năm 2016 với Việt Nam; và 2018 với Campuchia, Lào, và Myanma. Tháng 8/2006, các Bộ trưởng Kinh tế hai bên đã ký Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-Hàn Quốc. Hai bên đã ký Hiệp định Thương mại Hàng hóa (2006), Thương mại Dịch vụ (2007), và Đầu tư (tháng 6/2009). Trung tâm ASEAN-Hàn Quốc (AKC) cũng đã chính thức hoạt động từ tháng 3/2009 nhằm góp phần thúc đẩy đầu tư, thương mại và du lịch hai bên.
Hợp tác phát triển giữa ASEAN và Hàn Quốc tập trung vào các lĩnh vực giao thông, du lịch, nông nghiệp, khoa học công nghệ, môi trường, sức khoẻ, phát triển nguồn nhân lực, văn hóa, giao lưu nhân dân và thu hẹp khoảng cách.
          6. Quan hệ ASEAN-Mỹ:
Quan hệ đối thoại ASEAN-Mỹ chính thức bắt đầu từ 1977 ;. Bắt đầu từ năm 2009, hai bên đã lập thêm cơ chế họp Ủy ban Hợp tác chung (cấp Tổng Vụ trưởng). Hàng năm Ngoại trưởng Mỹ tham dự các cuộc họp PMC/ARF. Các Nhà Lãnh đạo ASEAN và Mỹ đã họp Cấp cao đầu tiên tại Xinh-ga-po vào ngày 15/11/2009.
Quan hệ đối thoại ASEAN-Mỹ nhìn chung hiện đang tiến triển tích cực. Ngày 17/11/2005, Lãnh đạo Cấp cao các nước ASEAN và Mỹ đã thông qua Tuyên bố Tầm nhìn chung về Quan hệ đối tác tăng cường với nội dung khá toàn diện và tích cực, nhằm tạo khuôn khổ cho quan hệ đối tác lâu dài giữa ASEAN và Mỹ; đồng thời cũng thông qua Kế hoạch Hành động với nhiều biện pháp cụ thể để triển khai Tuyên bố. Hai bên cũng ký kết nhiều thoả thuận hợp tác quan trọng như Tuyên bố chung về hợp tác chống khủng bố quốc tế, Thoả thuận khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA)...
Mỹ cũng chủ động đề xuất Sáng kiến vì sự Năng động ASEAN (EAI) về kinh tế - thương mại và Kế hoạch Hợp tác ASEAN (ACP) về hợp tác phát triển. Hai bên cũng đang xây dựng Chương trình Hỗ trợ và Đào tạo Kỹ thuật ASEAN-Mỹ giai đoạn 2 (TATF) trị giá 20 triệu USD để hỗ trợ ASEAN xây dựng cộng đồng vào năm 2015; triển khai các hoạt động hợp tác trong Chương trình Viễn cảnh Phát triển ASEAN (ADVANCE) trị giá 150 triệu USD nhằm hỗ trợ các chương trình khu vực và song phương của ASEAN cũng như hỗ trợ nỗ lực liên kết kinh tế và xây dựng cộng đồng của ASEAN. Hai bên đang tiếp tục đàm phán hoàn tất Hiệp định Hợp tác Khoa học và Công nghệ ASEAN-Mỹ.
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác, Mỹ đã điều chỉnh 8 lĩnh vực ưu tiên hợp tác phù hợp với tiến trình xây dựng Cộng đồng của ASEAN; các lĩnh vực ưu tiên gồm: chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia; xây dựng năng lực; kinh tế và tài chính; khoa học kỹ thật, quản lý thiên tai, môi trường và giáo dục.
Chính quyền mới của Tổng thống Obama có một số động thái, quan tâm hơn đến ASEAN và khu vực Đông Á; Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã thăm 4 nước châu Á, trong đó có In-đô-nê-xi-a và Ban thư ký ASEAN; tham gia Hiệp ước TAC và họp Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ-4 nước Mê công (CLTV) lần đầu tiên nhân dịp họp PMC/ARF-16 tháng 7/2009 tại Thái Lan. Mỹ cũng cam kết lập Phái đoàn Thường trực của Mỹ tại ASEAN cũng như xem xét khả năng họp Cấp cao kỷ niệm ASEAN-Mỹ và duy trì tập quán gặp gỡ giữa Tổng thống Mỹ và Lãnh đạo 7 nước Đông Nam Á là thành viên APEC bên lề Cấp cao APEC hàng năm.

          7. Quan hệ ASEAN-Nga:

Quan hệ ASEAN-Nga chính thức được thiết lập vào tháng 7/1996 và đã hình thành các cơ chế đối thoại thường kỳ ở cấp quan chức và Bộ trưởng Ngoại giao. ASEAN và Nga đã ký Tuyên bố chung về Quan hệ Đối tác vì Hoà bình, An ninh, Thịnh vượng và Phát triển tại khu vực châu Á-TBD (tháng 6/2003) đặt khuôn khổ cho việc tăng cường hợp tác giữa hai bên trong các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế và chuyên ngành. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-Nga lần thứ nhất (Malaysia, 12/2005), ASEAN và Nga đã ký Tuyên bố chung xác định phương hướng và các biện pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai bên, đồng thời thông qua Chương trình Hành động triển khai Tuyên bố chung.
Quan hệ chính trị ASEAN-Nga phát triển khá thuận lợi. Nga đã chính thức tham gia Hiệp ước TAC (2004). Hai bên đã nhất trí sẽ họp Cấp cao ASEAN-Nga lần thứ 2 trong năm 2010 để thúc đẩy hơn nữa quan hệ đối thoại. Tuy nhiên, hợp tác ASEAN-Nga về kinh tế-thương mại và hợp tác phát triển nhìn chung vẫn chưa như mong muốn của ASEAN. Hai bên đã ký Bản ghi nhớ thành lập Trung tâm ASEAN-Nga tại Học viện Quan hệ Quốc tế Mát-xcơ-va (MGIMO) vào tháng 7/2009 và đang đàm phán hoàn tất Hiệp định Hợp tác Văn hóa ASEAN-Nga nhằm tăng cường hợp tác trong lĩnh vực du lịch, giao lưu văn hóa, nghiên cứu…
          8. Quan hệ ASEAN-Ấn Độ:
Ấn Độ trở thành Đối tác đối thoại đầy đủ của ASEAN từ tháng 12/1995. Hiện hai bên có các cơ chế hợp tác ở nhiều cấp khác nhau, kể cả họp Cấp cao hàng năm. Quan hệ đối thoại ASEAN-Ấn Độ hiện đang phát triển khá nhanh trên cả 3 lĩnh vực chính trị-an ninh, kinh tế và văn hoá xã hội. Ấn Độ luôn bày tỏ coi trọng vai trò của ASEAN trong khu vực và tích cực thúc đẩy quan hệ với ASEAN.
Tại Cấp cao ASEAN-Ấn Độ (tháng 11/2004), hai bên đã ký “Tuyên bố ASEAN-Ấn Độ về Đối tác vì Hoà bình, Phát triển và Thịnh vượng" và thông qua Kế hoạch Hành động kèm theo. Hai bên cũng đã ký Tuyên bố chung về chống Khủng bố, Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế toàn diện nhằm tự do hóa hàng hóa, dịch vụ và đầu tư (RITA).
Về hợp tác kinh tế, ASEAN và Ấn Độ đã ký kết Hiệp định Thương mại Hàng hóa ký vào tháng 8/2009; hiện đang đàm phán hoàn tất các Hiệp định Thương mại Dịch vụ và Đầu tư. Ấn Độ cũng tích cực hỗ trợ các nước thành viên mới của ASEAN trong khuôn khổ Sáng kiến Liên kết ASEAN (IAI), nhất là về phát triển nguồn nhân lực. Hai bên đang xem xét thêm các lĩnh vực hợp tác khác để đẩy mạnh sự gắn kết.
          9. Quan hệ ASEAN-Liên minh Châu Âu (EU):
Quan hệ ASEAN-EU được chính thức hóa vào năm 1977; đến nay đã đạt được nhiều kết quả tích cực trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị và hợp tác phát triển. Hai bên đã lập các cơ chế đối thoại và hợp tác ở nhiều cấp, kể cả họp Ngoại trưởng hàng năm. Tháng 11/2007, hai bên đã họp Cấp cao kỷ niệm 30 năm quan hệ (lần đầu tiên họp Cấp cao). Quan hệ ASEAN-EU cũng được tăng cường bởi tiến trình hợp tác Á-Âu (ASEM). 
Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong lĩnh vực chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia, và đã thông qua Tuyên bố chung ASEAN-EU về hợp tác chống khủng bố quốc tế (2003).
Thời gian gần đây, trước những chuyển biến mới ở khu vực, EU ngày càng tỏ ra quan tâm hơn tới ASEAN, muốn thúc đẩy quan hệ hợp tác với ASEAN. EU đã đề xuất Chiến lược Quan hệ Đối tác mới với Đông Nam Á, thúc đẩy triển khai nhiều sáng kiến, chương trình hợp tác như: Chương trình hỗ trợ Hội nhập ASEAN (APRIS), Sáng kiến thương mại liên khu vực (TREATI – trong lĩnh vực thương mại) và Cơ chế đối thoại khu vực ASEAN – EU (READI – về các lĩnh vực khác). Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN-EU lần thứ 16 (2007), hai bên đã thông qua Tuyên bố Nuremberg về Quan hệ Đối tác tăng cường,  và Cấp cao Kỷ niệm ASEAN-EU đã thông qua Kế hoạch Hành động thực hiện Tuyên bố Nuremberg. Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN-EU lần thứ 17 (5/2009), các Bộ trưởng đã thông qua Chương trình Nghị sự Phnompênh về triển khai Kế hoạch hành động giai đoạn 2009-2010, với ưu tiên hỗ trợ ASEAN triển khai Hiến chương, xây dựng Cộng đồng và thu hẹp khoảng cách phát triển, đẩy mạnh hợp tác kinh tế-thương mại...; EU cũng đã chính thức đề nghị tham gia Hiệp ước TAC.
Về kinh tế-thương mại, EU là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của các nước ASEAN. Hai bên đang xem xét linh hoạt việc các nước ASEAN có điều kiện có thể tiến hành đồng thời đàm phán FTA song phương với EU.
Hợp tác về văn hóa-xã hội cũng được đẩy mạnh, đặc biệt trong lĩnh vực việc làm, chính sách xã hội và xã hội dân sự...
          10. Quan hệ ASEAN-Liên Hợp quốc:
Quan hệ hợp tác giữa ASEAN và Liên Hợp quốc (LHQ) được thiết lập từ sớm, thông qua quan hệ đối tác và các chương trình trợ giúp kỹ thuật giữa ASEAN và Chương trình Hợp tác Phát triển LHQ (UNDP) từ năm 1977. UNDP là tổ chức duy nhất của LHQ hưởng quy chế Bên đối thoại đặc biệt của ASEAN. ASEAN và LHQ đã tổ chức Hội nghị Cấp cao lần đầu tiên vào ngày 12/02/2000 tại Băng-cốc bên lề Khóa họp lần thứ 10 Hội nghị LHQ về Thương mại và Phát triển (UNCTAD). Năm 2005 tại New York, nhân dịp ĐHĐ/LHQ, hai bên cũng đã tổ chức Cấp cao lần 2. 

Quan hệ ASEAN-LHQ hiện đang tiến triển thuận lợi. Tháng 11/2002, Đại hội đồng LHQ khóa 56 đã thông qua Nghị quyết khuyến khích ASEAN tăng cường tiếp xúc và đẩy mạnh hợp tác với LHQ trong những lĩnh vực phù hợp. Trên cơ sở đó, nhiều chương trình, thỏa thuận giữa ASEAN và các tổ chức LHQ đã được xây dựng, tạo khuôn khổ và định hướng cho các hoạt động hợp tác giữa hai bên. Các tổ chức của LHQ cũng hỗ trợ ASEAN thực hiện nhiều chương trình, hoạt động quan trọng, trong đó có Hội nghị Cấp cao ASEAN về HIV/AIDS (2001), các chương trình hành động khu vực phòng chống HIV/AIDS, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, chăm sóc y tế... LHQ cũng tham gia hỗ trợ ASEAN triển khai một số dự án trong Chương trình Hành động Viên-chăn và các Kế hoạch hành động xây dựng Cộng đồng ASEAN. 
Tháng 12/2006, Đại hội đồng LHQ thông qua Quy chế Quan sát viên cho ASEAN, theo đó ASEAN được tham gia các phiên họp của Đại hội đồng LHQ với tư cách Quan sát viên. Tháng 2/2007, các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đã nhất trí nâng cấp quan hệ ASEAN-LHQ lên mức đối thoại đầy đủ. Theo đó, bên lề ĐHĐ/LHQ ở New York (27/9/2007), hai bên đã ký Hiệp định khung hợp tác ASEAN-LHQ thiết lập quan hệ đối tác giữa ASEAN và LHQ về chính trị, an ninh, kinh tế, văn hoá-xã hội.
11. Quan hệ ASEAN-Pakistan:
Pakistan là bên đối thoại theo lĩnh vực của ASEAN (ở mức thấp hơn đối thoại đầy đủ). Theo đó, hợp tác ASEAN-Pakistan chủ yếu trên các lĩnh vực kinh tế và văn hóa-xã hội. Cơ chế hợp tác cũng mới được hình thành ở cấp quan chức, chưa họp ở cấp Bộ trưởng hay Cấp cao.
Trong quan hệ ASEAN-Pakistan hiện nay có 11 lĩnh vực hợp tác, trong đó 8 lĩnh vực ưu tiên là thương mại, công nghiệp, đầu tư, khoa học công nghệ, ma túy và các chất gây nghiện, môi trường, du lịch và phát triển nguồn nhân lực.
12. Quan hệ ASEAN và các tổ chức khu vực:
Mở rộng quan hệ, tăng cường đối thoại, phát triển hợp tác với bên ngoài nhằm tranh thủ tối đa sự ủng hộ cả về chính trị lẫn nguồn vốn cho các chương trình hợp tác mới là một trong những ưu tiên hàng đầu của ASEAN. Các tổ chức, diễn đàn, tiến trình quốc tế tầm cỡ khu vực và thế giới, bởi vậy, là những đối tượng quan trọng để ASEAN thúc đẩy quan hệ.
12.1. ASEAN-MERCOSUR:
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN-MERCOSUR lần đầu tiên đã diễn ra ngày 24/11/2008 tại Braxilia, Braxin, đánh dấu mốc quan trọng hai bên chính thức lập quan hệ (trước năm 2008, ASEAN và MERCOSUR chưa có quan hệ chính thức; trao đổi thông tin chủ yếu thông qua Diễn đàn Đông Á-Mỹ Latinh FEALAC). Hội nghị đã tạo cơ sở và thúc đẩy tiến trình hợp tác giữa hai nhóm nước vì lợi ích chung của cả hai bên cũng như góp phần thúc đẩy hợp tác Nam-Nam. Các Bộ trưởng đã giao các quan chức hai bên xây dựng Kế hoạch Hành động triển khai các lĩnh vực hợp tác ưu tiên như kinh tế-thương mại, năng lượng, nông nghiệp, giao thông vận tải, du lịch, giao lưu nhân dân và các thách thức xuyên quốc gia.
12.2. ASEAN-GCC:
Quan hệ ASEAN-GCC được bắt đầu năm 1990 và được triển khai thông qua 2 Ban Thư ký; năm 2000, ASEAN lập Uỷ ban ASEAN tại Riyadh; các Bộ trưởng hai bên cũng có cuộc gặp bên lề ĐHĐ/LHQ (troika) nhưng không thường xuyên. Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN-GCC chính thức lần đầu tiên đã diễn ra ngày 29-30/6/2009 tại Manama, Ba-ranh; thông qua “Tầm nhìn chung ASEAN-GCC” xây dựng quan hệ đối tác mới, xác định các lĩnh vực hợp tác cùng quan tâm (thương mại, đầu tư, tài chính, năng lượng, an ninh lương thực, nông nghiệp, lao động, du lịch, giao lưu nhân dân và lãnh sự), cơ chế hợp tác và biện pháp triển khai. Ban Thư ký hai bên đã ký Biên bản ghi nhớ (MOU) về hợp tác giữa hai Ban Thư ký.
12.3. ASEAN-các tổ chức khu vực khác:
ASEAN đã có quan hệ tham vấn với các tổ chức khu vực như Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), Tổ chức Hợp tác Nam Á (SAARC), Nhóm RIO và ANDEAN… thông qua các Ban Thư ký. Ngoài ra, các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN có cuộc gặp với Ngoại trưởng các Nhóm trên (không thường xuyên) nhân dịp ĐHĐ-LHQ hàng năm tại New York.
- ASEAN-SAARC: Quan hệ được thiết lập năm 1992. Đến nay hai bên đã có 8 cuộc họp giữa các Bộ trưởng Ngoại giao bên lề ĐHĐ/LHQ tại New York. Hai bên đã thông qua Quy tắc về quan hệ đối tác giữa BTK ASEAN và SAARC; xây dựng Kế hoạch công tác giai đoạn 2008-2009 về đối tác Ban Thư ký ASEAN và GCC, gồm các lĩnh vực Thương mại đầu tư, Năng lượng, Y tế (HIV/AIDS), Du lịch, Nông nghiệp, Ma tuý và Tội phạm xuyên quốc gia, Xóa đói giảm nghèo.
- ASEAN-SCO: Ngày 21/4/2005, tại Jakarta, hai bên đã ký Bản ghi nhớ (MOU) giữa BTK ASEAN và BTK SCO, trong đó nêu các lĩnh vực ưu tiên hợp tác là Tội phạm xuyên quốc gia (chống khủng bố, quản lý ma tuý và chất gây nghiện, buôn lậu vũ khí, rửa tiền, buôn người), và các lĩnh vực hợp tác khác như: hợp tác kinh tế tài chính, du lịch, môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên, phát triển xã hội, hợp tác năng lượng, nhất là năng lượng thủy điện và năng lượng sinh học.
- Ngoài ra, ASEAN còn có quan hệ với Liên minh Ả rập (Arab League), Cộng đồng phát triển Nam Phi (SADC).
13. Sáng kiến Hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng (Một trục hai cánh)
Trung Quốc nêu ý tưởng về chiến lược HTKT Trung Quốc - ASEAN, gọi tắt là “Một trục hai cánh” tại Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Vịnh Bắc Bộ mở rộng lần I tháng 7/2006. Hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng là trọng tâm của sáng kiến "Một trục hai cánh”, được Quảng Tây thúc đẩy mạnh trong 3 năm qua. Đây cũng là vấn đề liên quan trực tiếp đến chủ quyền lãnh thổ của ta ở Biển Đông.
Về cơ bản, khu vực hợp tác kinh tế Vịnh Bắc Bộ mở rộng có thể chia thành ba vành đai kinh tế: (i) Vành đai kinh tế ven Vịnh Bắc Bộ bao gồm các khu vực ven biển của Quảng Tây, Hải Nam, Quảng Đông của Trung Quốc và các tỉnh ven Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam; (ii) Vành đai kinh tế gần kề là vành đai kinh tế kéo dài của khu vực trung tâm bao gồm Khu kinh tế Hoa Nam Trung Quốc và toàn bộ Việt Nam; và (iii) Vành đai mở rộng hay là vành đai kinh tế lớn gồm phần lớn các tỉnh ở miền Nam Trung Quốc và phần lớn các nước ASEAN.
Các lĩnh vực hợp tác chủ yếu bao gồm: du lịch, cơ sở hạ tầng và giao thông vận tải, lưu thông hàng hóa, mậu dịch, nông-ngư nghiệp, năng lượng và kinh tế biển, tài chính, môi trường… Hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng được thúc đẩy trên các nguyên tắc: 1) Cùng có lợi, tự nguyện và phù hợp với khả năng thích ứng của các bên; 2) Thiết thực, tiệm tiến, từ dễ đến khó, từ thấp đến cao; 3) Mở và minh bạch, thu hút rộng rãi các đối tác ngoài khu vực cùng tham gia.
Diễn đàn HTKT/VBB mở rộng lần thứ II tổ chức tại Nam Ninh tháng 7/2007. Cuộc họp lần thứ nhất của Diễn đàn trên được tỉnh Vân Nam tổ chức tại Côn Minh tháng 6/2008. Diễn đàn HTKT/VBB mở rộng lần III tổ chức tại Bắc Hải, Quảng Tây tháng 7/2008. Diễn đàn lần IV được tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây ngày 6/8/2009. Trung Quốc cũng đã chủ trì tổ chức 3 phiên họp Nhóm chuyên gia hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng (tháng 7/2008, 10/2008 và tháng 8/2009) xây dựng dự thảo Báo cáo khả thi về hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét