Đề bài: Bình luận điều 44, 45 trong Luật doanh nghiệp
năm 2005.
BÀI LÀM.
Công ty TNHH được
ra đời vào khoảng cuối thế kỉ XIX, cho đến ngày nay, công ty TNHH đã trở thành
một doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh
tế của các quốc gia trên thế giới. Sở dĩ như vậy vì loại hình công ty này thích
hợp cho quy mô kinh doanh vừa và nhỏ, đây là mô hình kinh doanh lí tưởng được các nhà đầu tư lựa chọn khi thực hiện công việc kinh doanh của mình trước khi nghĩ đến những loại hình đầu
tư lớn hơn. Trong Luật daonh nghiệp Việt nam đã có những quy định có thể nói là
khá toàn diện về loại hình công ty này, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều điểm cần phải
được đưa ra để bàn luận. Trong phạm vi bài viết này em xin bình luận về cơ chế
chuyển nhượng vốn và xử lí phần vốn góp trong các trường hợp khác được quy định
trong Điều 44, 45 Luật doanh nghiệp năm 2005.
NỘI DUNG.
Công ty trách nhiệm
hữu hạn là loại hình công ty trung gian
giữa công ti đối nhân và công ty đối vốn, bởi nó mang tính chất của cả hai loại
hình công ty này, Luật doanh nghiệp không đưa ra khái niệm cụ thể thế nào là
công ty trách nhiệm hữu hạn mà chỉ liệt kê các dấu hiệu đặc trưng của loại hình
công ty này để phân biệt với các loại hình công ty khác như: công ty cổ phần,
công ty hợp danh…
-
Công ty TNHH là một pháp nhân độc lập, địa vị
này quyết định đến chế độ trách nhiệm của
công ty
-
Thành
viên công ty không nhiều và thường là những người quen biết nhau.
-
Vốn điều lệ chia thành từng phần, mỗi thành viên
có thể góp nhiều hoặc ít khác nhau và bắt buộc
phải nộp đủ khi công ty được thành lập, công ty phải bảo toàn vốn ban đầu.
Theo pháp luật nước
ta, có hai loại công ty trách nhiệm hữu hạn: công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở nên. Trong phạm vi
bài viết này đó là bình luận về điều 44, 45 Luật doanh nghiệp về cơ chế chuyển
nhượng vốn và xử lí phần vốn góp trong các trường hợp khác.
XEM THÊM: CÔNG TYTNHH MỘT THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
-
Khái niệm:
Khoản
1 điều 38 có đưa ra định nghĩa về công ty TNHH hai thành viên trở nên:
“ 1. Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp trong đó:
a, thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số
lượng không vượt quá 50;
b, thành viên chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp.
c, phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển
nhượng theo các quy định tại điều 44, 45 Luật này”.
-
Quy định như vậy, cho ta thấy các đặc điểm sau:
+ Về
thành viên công ty: tối thiểu là hai và không vượt quá 50 thành viên, thành
viên có thể là tổ chức hoặc cá nhân. Có quy định như vậy, vì là do mô hình công
ty TNHH thích hợp cho việc kinh doanh ở quy mô vừa và nhỏ. Mặt khác, ngay từ
cách gọi tên của công ty TNHH hai thành viên trở nên đã nói số lượng tối thiểu
là hai để phân biệt với công ty TNHH một thành viên. Còn số thành viên không vượt
quá 50 là để phân biệt với công ty cổ phần, mặt khác bản thân công ty TNHH có
mang yếu tố đối nhân nên giới hạn thành viên công ty cũng là điều dẽ hiểu.
+ Tư
cách pháp nhân: có tư cách pháp nhân, kể
từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh vì công ty TNHH hai thành
viên mang đầy đủ dấu hiệu của một pháp
nhân theo quy định tại Điều 84 BLDS.
+ Về
chế độ chịu trách nhiệm tài sản của thành viên công ty: Công ty chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ
tài sản khác của công ty bằng tài sản của
mình( trách nhiệm hữu hạn). Thành viên công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và tài sản khác của công ty
trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty. Như vậy ở loại hình công ty
này, có sự tách biệt rất rõ ràng về tài sản
của công ty và của thành viên công ty.
+ Về
chuyển nhượng vốn của thành viên công ty:
phần vốn góp của các thành viên công ty chỉ được chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. thành viên công
ty TNHH có quyền chuyển nhượng một phần
hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác theo quy định tại Điều 44.
+ Công
ty không được quyền phát hành cổ phần: cổ phần là phần chia nhỏ nhất của vốn điều
lệ, được thể hiện dưới dạng cổ phiếu, theo quy định tại Khoản 3 điều 38; “
Công ty TNHH không được phát hành cổ phần”.
Theo quy định tại Điều 44 Luật
doanh nghiệp năm 2005, việc chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty TNHH hai
thành viên trở nên được quy định như sau:
“
Trừ trường hợp quy định tại Khoản 6 Điều 45 của Luật này, thành viên công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở nên có quyền chuyển nhượng một phần hoặc
toàn bộ tài sản của mình cho người khác
theo quy định sau đây:
1.
Phải
chào bán phần vồn góp đó cho các thành viên còn lại theo tì lệ tương ứng với phần
vốn góp của họ trong công ty với cùng điều
kiện.
2.
Chỉ được
chuyển nhượng cho người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của
công ty không mua hoặc không mua hết trong thời hạn a30 ngày kể từ ngày chào
bán”.
Điều 45 về xử lí
phần vốn góp trong các trường hợp khác:
“1.
Trong trường hợp thành viên là cá nhân chết hoặc bị Tòa tuyên bố là đã chết thì người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp
luật của thành viên đó là thành viên của
công ty.
2.Trong
trường hợp có thành viên công bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự
thì quyền và nghĩa vụ của thành viên đó
trong công ty được thực hiện thông qua
người giám hộ.
3.Phần
vốn góp của thành viên được công ty mua
lại hoặc chuyển nhượng theo quy định tại
Điều 43 và 44 Luật này trong các trường hợp sau đây:
a,
người thừa kế không muốn trở thành thành viên;
b,
người được tặng cho theo quy định tại khoản 5 Điều này không được HĐTV chấp thuận là thành viên.
c, thành viên là tổ chức bị giải thể hoặc
phá sản.
…
6. Trường hợp thành viên sử dụng phần vốn góp để
trả nợ thì người nhận thanh toán có quyền
sử dụng phần vốn góp đó theo một trong hai cách sau đây:
a, trở thành thành viên của công ty nếu được
HĐTV chấp thuận.
b, chào bán và chuyển nhượng phần vốn góp đó
theo quy định tại Điều 44 của Luật này”.
Theo Luật công ty
năm 1990, việc chuyển nhượng vốn
góp của các thành viên được thực hiện tự do trong nội bộ công ty, còn nếu
muốn chuyển nhượng phần vốn đó cho người không phải là thành viên công ty thì
phải được sự nhất trí của nhóm đại diện
cho ít nhất ¾ số vốn điều lê công ty. Quy định này một mặt nhằm chống sự xâm nhập của người lạ vào nội bộ
công ty, mặt khác nó cũng dễ bị các
thành viên chiếm đa số vốn điều lệ lợi dụng để chèn ép, gây khó đối với việc chuyển nhượng vốn của thành viên chiếm thiểu
số vốn điều lệ. Luật doanh nghiệp năm 1999 đy củã khắc phục điểm hạn chế này của
Luật công ty năm 1990 bằng quy định: “
thành viên muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn góp của công ty phải chào
bán phần vốn góp đó cho tất cả các thành viên còn lại thoe tỉ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng
các điều kiện. chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là thành viên công
ty nếu các thành viên còn lại không mua
hoặc không mua hết ( điều 32 Luật doanh nghiệp năm 1999). Tuy nhiên, điểm
hạn chế trong quy định này củaLuật năm
1999 đó là không quy định thời hạn chuyển
nhượng phần vốn góp giữa các thành
viên trong nội bộ công ty. Vì vậy các
thành viên công ty có quyền dây dưa, kéo dài
thời gian và gây khó khăn cho việc chuyển nhượng vốn của các thành viên
muốn chuyển nhượng.
Luật doanh nghiệp
năm 2005 đã khắc phục được những hạn chế đó: Theo quy định của Luật doanh nghiệp
2005 thì việc chuyển nhượng phần vốn góp trong CTTNHH không phải dễ dàng, bởi lẽ
công ty TNHH tuy thuộc loại hình công ty đối vốn nhưng lại mang dáng dấp của
công ty đối nhân, các thành viên trong chừng mực nhất định, vẫn quan tâm đến
nhân thân của nhau, do đó những hạn chế này nhằm ngăn chặn sự xâm nhập cảu người
lạ vào công ty, đảm bảo cho sự liên kết mang tính ổn định của công ty. Tuy
nhiên tại Điều 44 này vẫn còn nhiều vướng mắc:
Thứ
nhất, quy định thành viên công ty muốn chuyển nhượng vốn phải chào bán
phần vốn góp đó cho các thành viên còn lại
theo tỉ lệ tương ứng vơi phần vốn góp của họ trong công ty cũng với
cùng điều kiện vẫn tạo điều kiện thuận lợi cho
các thành viên công ty lách luật
trên thực tế. bởi vì Luật doanh nghiệp năm 2005 chỉ quy định phải chào bán cho các thành viên công ty với cùng điều kiện nhưng hoàn toàn không đề cập điều kiện đó phải như thế nào. Do vậy,
việc thành viên muốn chuyển nhượng, chào bán phần vốn góp của mình gấp hai lần
hoặc nhiều hơn so với giá trị thực tế trên thị trường khiến các thành viên công ty không thể mua được
rồi đem bán cho người ngoài công ty mà vẫn được coi là hợp pháp.
Thứ
hai, luật doanh nghiệp năm 2005 chưa dự liệu đến trường hợp thành
viên công ty muốn bán phần vốn góp của mình tại công ty nhưng
vì lí do nào đó, các thành viên còn lại, mỗi người chỉ muốn mua một phần vốn mà
thành viên chào bán thì việc mua
bán sẽ được tiến hành như thế nào? Khoản
2 điều 44 có hai cách hiểu : Một là ,nếu
mỗi thành viên công ty mua không hết số
vốn mà mình được chào bán thì thành viên muốn chuyển nhượng có quyền không bán và chào bán toàn bộ phần vốn
muốn chuyển nhượng cho người ngoài. Hai
là thành viên công ty không mua hết thì thành viên muốn chuyển nhượng vẫn phải
ưu tiên bán cho thành viên công ty và chỉ được bán cho người ngoài phần vốn còn lại mà thành viên công ty không mua. Ví dụ, công ty TNHH ABC có ba thành viên A, B, C mỗi người sở
hữu phần vốn là 20 triệu. A chào bán cho
B và C mỗi người 10 triệu nhưng B chỉ muốn
mua 8 triệu còn C chỉ muốn mua 9 triệu. Hiểu theo cách thứ nhất thì A có quyền không
bán cho B và C mà chào bán toàn bộ phần vốn 20 triệu của mình cho người ngoài công ty. Trong trường
hợp này , các thành viên còn lại của
công ty buộc phải chấp nhận sự thâm nhập của người lạ vào công ty. Nếu hiều
theo cách thứ hai, A chỉ có thể chào bán cho người ngoài công ty 3 triệu, trong
khi đó B và C đã sở hữu 57 triệu chiếm 95% vốn điều lệ.việc mua bán phần vốn 3
triệu của A gần như không thực hiện được. Như vậy, thành viên muốn chuyển nhượng
phần vốn góp sẽ gặp bất lợi nếu như các
thành viên còn lại của công ty không có thiện chí.
Thứ
ba, mâu thuẫn trong quy định tại Điều 44 và Khoản 6 Điều 45. Điều 44
quy định loại trừ Khoản 6 Điều 45: “ Trừ
trường hợp quy định tại Khoản 6 điều 45 của Luật này...” nhưng Khoản 6 Điều
45 lại dẫn chiếu đến quy định tại Điều 44 như sau: “ Trường hợp thành viên sử dụng phần vốn góp để trả nợ thì một cách mà người nhận thanh toán có quyền
sử dụng phần vốn góp đó là chào bán và
chuyển nhượng phần vốn góp đó theo quy định tại Điều 44 của Luật này.” Với
quy định của pháp luật như vậy, thực tiễn áp dụng có nhiều lúng túng khi trường
hợp người nhận thanh toán muốn chào bán và chuyển nhượng phần vốn góp theo quy
định tại Điều 44 nhưng lại bị chính quy định tại Điều 44 không cho phép.
Thứ
năm, về thời hạn chào bán phần vốn góp quy định tại khoản 2 điều 44: Chỉ được chuyển nhượng cho người không phải
là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết
trong thời hạn a30 ngày kể từ ngày chào bán”.
Vậy thời hạn 30
ngày được hiểu như thế nào? Có quan điểm cho rằng, thời hạn 30 ngày đó là tổng thời gian cho
tất cả các lần chuyển nhượng.
nghĩa là nếu có thành viên không mua hoặc không mua hết phần vốn góp trong thời
hạn chào bán trong vòng 30 ngày kể từ
ngày chào bán thì thành viên muốn chuyển
nhượng thì phải chào bán phần vốn đó cho
tất cả các thành viên khác còn lại
và việc chuyển nhượng đó vẫn cứ tiếp tục
theo trình tự trên cho đến khi hết thời ba mươi ngày kể từ ngày kế từ ngày chào bán lần đầu tiên . Nếu sau thời hạn này,
mà vẫn cò phần vốn góp chưa được các
thành viên mua thì lúc đó mới chuyển nhượng
cho người khác không phải là thành viên
công ty.
Quan điểm khac lại
cho rằng, trong thời hạn 30 ngày đó là thời gian của từng lần chuyển nhượng một. Nghĩa là nếu có thành viên không mua hoặc không mua hết phần vốn góp trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày chào bán đầu
tiên thì thành viên muốn chuyển nhượng
phải chào bán phần vốn đó cho tất cả các
thành viên khác còn lại trong thời hạn
30 ngày, kể từ ngày chào bán lần thứ hai. Sau thời hạn này mà phần vốn góp vẫn
chưa được bán hết thì trình tự và thời hạn
chuyển nhượng phần vốn góp đó lại được tiếp tục như trên. Chỉ khi nào không còn thành viên nào mua nữa thì lúc đó mới được chuyển nhượng cho người khác
không phải là thành viên công ty.
Theo quan điểm
thứ hai thì trên thực tế sẽ nảy sinh nhiều bất cập, đó là sự dây dưa, kéo
dài của một số thành viên công ty nhằm gây khó khăn , khống chế thành viên muốn chuyển nhượng vốn, ảnh hưởng
đến quyền lợi của thành viên cần chuyển nhượng. chúng tôi cho rằng cần hiểu quy
định này theo quan điểm thứ nhất, tuy nhiên nếu theo quan điểm thứ nhất thì
cũng nảy sinh bất cập trong thực tế. đó
là trường hợp có thành viên không mua hoặc
không mua hết, nhưng thời điểm mà họ không mua hoặc không mua hết là là thời điểm cuối của thời hạn 30 ngày, kể
từ ngày chào bán. Lúc này, thành viên
chào bán phần vốn mà thành viên không mua hoặc không mua hết cho các
thành viên còn lại thì các thành viên khác cũng khó có thể thực hiện được việc mua bán này bởi vì hạn luật định sắp hết.
Bên cạnh việc quy
định những hạn chế trong việc chuyển nhượng
phần vốn góp của thành viên công ty, Luật doanh nghiệ p còn tạo dựng ra cơ chế
chuyển nhượng linh hoạt và mềm dẻo cho
cá thành viên công ty, giúp cho họ có điều kiện chuyển đổi hình thức đầu tư khi
họ không muốn ở lại công ty nữa vì họ
không có lợi hoặc vì những lí do khác. Mặt
khác vẫn đảm ảo được lợi ích ưu tiên của
nội bộ thành viên công ty nhằm ,kiểm soát sự xâm nhập của người nước ngoài vào công ty đồng thời các
thành viên khác cũng không thẻ lợi dụng quyền để cản trở hay chèn ép việc chuyển nhượng vốn của họ.
Pháp luật quy định
xử lí phần vốn góp của thành viên trong công ty trong các trường hợp như đã
nêu. Theo đó pháp luật đã dự liệu được rất nhiều trường hợp sẽ xảy ra với phần
vốn góp của thành viên, tuy nhiên vẫn
còn nhiều điểm bất cập.
Về
thừa kế phần vốn góp: Theo quy định tại Điều 45 Luật doanh nghiệp thì: “ Trong trường họp thành viên là cá nhân chết
hoặc bị Tòa tuyên bố là đã chết thì người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp
luật của thành viên đó là thành viên của công ty”. Quy định này còn tồn tại
hạn chế đó là người thừa kế đương nhiên
được coi là thành viên công ty thì tư cách thành viên công ty đã được coi là
tài sản thừa kế. Điều này trái với quy định tại Điều 634BLDS về di sản thừa kế,
theo đó di sản thừa kế bao gồm: “ tài sản
riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với
người khác”. Như vậy phần vốn góp kèm theo các quyền và nghĩa vụ có liên
quan của người góp vốn mới là di sản thừa kế
chứ không phải là tư cách thành viên công ty.
Về
sử dụng phần vốn góp để trả nợ: khoản 6 Điều 45 luật daonh nghiệp quy định
thành viên công ty TNHH có quyền sử dụng phần vốn góp để trả nợ, người nhận
thanh toán có thể trở thành thành viên của công ty nếu được HĐTV chấp thuận hoặc
chào bán và chuyển nhượng phần vốn góp
đó theo quy định tại Điều 44 Luật daonh nghiệp nếu không muốn trở thành
thành viên của công ty hoặc không được
HĐTV chấp thuận là thành viên của công ty. ở đây ta thấy có sự mâu thuẫn trong
việc áp dụng điều luật. Theo quy định tại Điều 44 như đã chứng minh đó là dẫn
chiếu đến trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 45, trong khi Khoản 6 Điều 45 là
trường hợp ngoại trừ của Điều 44 lại dẫn chiếu đến Điều 44. Như vậy là không hợp
lí.
Quy định về xử lí
phần vốn góp trong trường hợp tặng cho còn có điểm chưa hợp lí: vì theo quy định
tại khoản 5 Điều 45 Luật doanh nghiệp, vợ và con nuôi của thành viên không phải
là người có cùng huyết thống đến thế hệ thứ ba, vì vậy, việc tặng cho phần vốn
góp để trở thành thành viên công ty phải
được HĐTV chấp thuận. điều này không hợp lí vì vợ, con đẻ, con nuôi đều thuộc
hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại Khoản 1 điều 676 BLDS. Nhưng trong vấn
đề tặng cho phần vốn góp lại có sự phân biệt. con đẻ là người được tặng cho thì đương nhiên là thành viên, còn vợ và con nuôi là người được
tặng cho thì phải được sự chấp thuận của HĐTV mới trở thành thành viên, đây
là chưa kể đến tặng cho cháu nội, cháu ngoại ( chỉ thuộc
hàng thừa kế thứ hai) thì cháu nội, cháu
ngoại đương nhiên trở thành thành viên còn tặng cho vợ và con nuôi phải có sự chấp thuận của HĐTV. Quy định này
dường như có sự không hợp lí và rất dễ lách . Nếu thành viên muốn tặng cho
vợ nhưng lại không muốn thông qua HĐTV
thì thực hiện trước tiên tặng cho con để sau đó tặng cho mẹ.
Mặt
khác, pháp luật quy định chưa rõ ràng về
quyền biểu quyết của người tặng cho
khi HĐTV biểu quyết chấp thuận vợ và con nuôi trở thành thành vien, tỉ lệ biểu quyết thông qua tại HĐTV. Hiện tại, chưa có quy định nào của Luật doanh nghiệp cấm hay hạn chế quyền
biểu quyết của thành viên tặng cho, do
đó , thành viên tặng cho vẫn có quyền biểu quyết. Ngoài ra, theo quy định tại
Khoản 4 điều 22, thông tin về thành viên
là một nội dung trong điều lệ công ty nên việc tặng cho dẫn đến làm thay đổi Điều lệ công ty và tất yếu
phải được số thành viên sở hữu ít
nhất 75% phần vốn góp dự họp chấp thuận. Giả sử thành viên sở hữu hơn 75% vốn góp tặng cho vợ và con
nuôi thì tỉ lệ này đủ để thành viên tặng cho có thể thông qua việc tặng cho của
chính mình tại HĐTV mà không cần quan tâm đến ý kiến của các thành viên khác,
khi đó việc biểu quyết chỉ còn là vấn đề
thủ tục.
4. Một số kiến
nghị hoàn thiện.
-
Cần sửa đổi những quy định chưa hợp lí;
Điều 44 trong Luật
doanh nghiệp cần quy định chi tiết những điều kiện đối với thành viên muốn chuyển nhượng phần vốn góp của mình thông qua việc chào bán phần vốn góp đó cho các thành
viên khác trong công ty. Mặt khác cần phải
sửa đổi quy định này theo hướng cho phép thành viên muốn chuyển nhượng vốn được quyền xác định giá chào bán phần vốn đó nhưng phải dựa trên giá thị trường tại thời điểm choa bán, mục đích để tránh
tình trạng thành viên muốn chuyển nhượng
vốn có thể chào bán phần vốn góp của
mình với giá cao hơn rất nhiều lần so với giá trị thực tế trên thị trường khiến các thành viên khác trong công ty không thể mua được và từ đó bán cho người ngoài.
-
Một số quy định cần được giải thích rõ ràng và
quy định chặt chẽ hơn.
Cần giải quyết mâu
thuẫn trong quy định tại điều 44 và Khoản 6 điều 45 Luật doanh nghiệp. Do hai quy định này có sự
mâu thuẫn với nhau nên thực tiễn áp dụng
còn lúng túng khi trường hợp người nhận
thanh toán muốn chào bán và chuyển nhượng phần vốn góp theo quy định của pháp
luật tại điều 44 nhưng lại bị chính quy định tại Điều 44 không cho phép. Thiết
nghĩ , Luật doanh nghiệp năm 2005 nên bỏ
quy định loại trừ tại điều 44.
-
Cần quy định
rõ ràng Khoản 2 điều 44 Luật doanh nghiệp:
Trong
trường hợp thành viên công ty muốn bán một
phần vốn của mình tại công ty nhưng vì lí do nào đó, các thành viên còn lại, mỗi
thành viên chỉ muốn mua một phần vốn mà
thành viên đó chào bán. Theo đó nên thống nhất cách hiểu tại Khoản 2 Điều
44 Luật doanh nghiệp để tránh tính trạng
gây rắc rối trong áp dụng như hiện nay.
-
Cần có sự quy định thống nhất giữa các văn bản
pháp luật
-
Đối với việc xử lí phần vốn góp trong trường hợp
tặng, cho một phần hoặc toàn bộ phần vốn
góp:
Người được tặng cho là người có cùng huyết thống trong phạm vi ba đời, đương nhiên là thành viên của công ty. Đồng thời bổ
sung quy định trong trường hợp người được tặng cho là những người thuộc hàng thừa
kế thứ nhất và thứ hai như trong quy định
tại điều 676 BLDS thì họ đương
nhiên trở thành thành viên của công ty . đồng thời bổ sung quy định trong trường hợp người được tặng cho là người khác thì người tặng cho không có quyền biểu quyết tại
HĐTV để tránh lộng quyền trong quản lí
doanh nghiệp.
-
Về thời hạn chuyển nhượng phần vốn góp cho người
khác.
Vì vậy, nếu thời hạn 30 ngày được hiểu như quan điểm thứ nhất thì để đảm bảo lợi ích của thành viên muốn chuyển nhượng, cũng như
các thành viên khác của công ty, cần quy định kéo dài thêm một thời hạn nhất định nữa sau thời hạn 30 ngày đs, có thể là bảy ngày
chẳng hạn. Sau thời hạn kéo dài thêm này
mà vẫn còn phần vốn góp chưa được mua hoặc chưa được mua hết thì thành viên muốn chuyển nhượng đương nhiên được quyền chuyển nhượng cho người
khác không phải là thành viên công ty. Quy định này đảm bảo quyền lợi cho thành
viên muốn chuyển nhượng, tránh sự dây
dưa, kéo dài và gây khó khăn của các thành viên khác trong công ty.
XEM THÊM: THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN
LỜI KẾT
Phải nói rằng, việc
tìm hiểu và hoàn thiện các quy định về
công ty trách nhiệm hữu hạn.. không chỉ có tác dụng với việc lập pháp mà
còn có ý nghĩa to lớn đối với các nhà đầu . để tránh những rửi ro do thiếu xót
của pháp luataj , pháp luật đ/c hầu hết
mọi mặt của công ty những còn có những
quy định chưa rõ ràng , gây các cách hiểu khác nhau, những quy định còn chưa
phù hợp cần được sauwr đổi và thống nhấy để đảm bảo sự bình đẳng của các chủ thể,
vừa khuyến khích đầu tư.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét