K là chủ kiêm lái xe thường xuyên được
Công ty X thuê chở hàng từ kho của công ty giao cho Hợp tác xã M. Trong một lần
chở hàng, do đã quen nhau nên thủ kho của công ty X thỏa thuận và cho K vào kho
tự bốc và xếp hàng lên xe, mỗi chuyến là 30 bao hàng ra cổng thủ kho mới kiểm
tra số hàng vận chuyển và ký vào phiếu xuất hàng. Hôm đó K đã chở được 4
chuyến, mỗi chuyến đúng 30 bao hàng, đến chuyến thứ 5 K tự xếp thêm 2 bao hàng
lên xe (vượt 2 bao so với thỏa thuận với thủ kho). Khi ra cổng kho K điềm nhiên
như vẫn chở 30 bao hàng như các chuyến trước và đưa phiếu xuất hàng cho thủ kho
ký. Tin rằng K chở đủ số bao hàng như các chuyến trước, lại đã giữa trưa nên
thủ kho không đếm lại số bao hàng K vận chuyển mà ký xác nhận ngay vào phiếu
xuất 30 bao hàng. Bằng thủ đoạn trên K đã chiếm đoạt được 2 bao hàng của Công
ty X trị giá là 5 triệu đồng.
Về hành vi chiếm đoạt tài sản của K có các ý kiến sau về tội danh:
a. K phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
b. K phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
c. K phạm tội trộm cắp tài sản.
Hỏi:
1. Anh (chị) hãy bác bỏ các ý kiến sai; Xác định ý kiến đúng và giải thích rõ
tại sao? (3 điểm)
2. Mở rộng điều tra, cơ quan điều tra còn xác định được ngoài hành vi chiếm
đoạt tài sản nói trên, K còn rút bớt mỗi chuyến một số hàng hóa của Hợp tác xã
M tổng giá trị là 10 triệu đồng. Hãy định tội cho hành vi này. (2 điểm)
3. Toàn bộ số tài sản chiếm đoạt được K đã bán lại cho N. Theo anh (chị) N có
phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao? (2 điểm)
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. Anh (chị) hãy bác bỏ các ý kiến sai; Xác
định ý kiến đúng và giải thích rõ tại sao?
Ta khẳng định
rằng hành vi chiếm đoạt tài sản Công ty X của K cấu thành nên tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138
BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.
Xét tình huống
trên, chúng ta có thể thấy những dấu hiệu pháp lý trong tội phạm này rất dễ xảy
ra sai lầm trong việc định tội. Nếu không hiểu rõ được tính chất và các đặc
trưng của từng tội cụ thể thì sẽ dễ dẫn đến nhầm lẫn giữa các tội danh với
nhau.
Về hành vi chiếm đoạt của K hiện có 3
quan điểm cho rằng:
- K phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản (Điều 140 BLHS)
- K phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(Điều 139 BLHS)
- K phạm tội trộm cắp tài sản (Điều 138
BLHS)
Để tránh gây nhầm lẫn giữa ba tội danh
này ta sẽ phân tích dấu hiệu pháp lý của từng tội để đưa ra được kết luận đúng
đắn về tội danh của K đối với tình huống trên.Ta thấy, trong cấu thành tội phạm
của ba tội này đều có những điểm chung đó là:
Về khách thể,
các tội này đều xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, cụ thể
ở đây là quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công ty X.
Đối tượng tác
động của tội phạm là tài sản, mà ở vụ án này là 2 bao hàng của Công ty X trị
giá 5 triệu đồng.
Về mặt khách
quan: đều có hành vi chiếm đoạt tài sản.
Về mặt chủ
quan, lỗi của K là lỗi cố ý trực tiếp, biết hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội nhưng vẫn thực hiện và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Bên cạnh việc cố ý
thực hiện hành vi phạm tội thì người phạm tội còn có mục đích chiếm đoạt tài
sản.
Về chủ thể, ở
đây K có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
Do đó, để xem
xét hành vi phạm tội của K thuộc tội danh nào thì ta cần xét đến những dấu hiệu
pháp lý, cụ thể là xét hành vi khách quan của ba tội này xem hành vi phạm tội
của K tương ứng với hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm của tội nào.
a) Quan điểm
cho rằng K phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS 1999) hoặc K phạm
tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 BLHS 1999) là sai.
Trong thực tiễn
xét xử, hai tội danh này thường dễ bị nhầm lẫn.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của
người khác bằng thủ đoạn gian dối. Hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
gồm hai hành vi khác nhau là: hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt.
* Hành vi lừa dối là hành vi cố ý đưa ra thông tin không
đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật. Xét về mặt khách quan, hành
vi lừa dối là hành vi đưa ra những thông tin giả. Về mặt chủ quan người phạm
tội biết đó là thông tin giả nhưng vẫn mong muốn người khác tin đó là sự thật.
Hành vi lừa dối được biểu hiện cụ thể qua thủ đoạn gian dối. Thủ đoạn gian dối
của người phạm tội bao giờ cũng phải có trước khi có việc giao tài sản giữa
người bị hại với người phạm tội . Lừa dối là cơ sở, là tiền đề để việc chiếm
đoạt tài sản xảy ra.
* Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo có 2 hình thức thể
hiện cụ thể:
- Nếu tài sản
bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản thì hình thức thể hiện cụ
thể của hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối.
Vì tin vào những thông tin người phạm tội đưa ra nên người bị lừa dối đã giao
tài sản đó cho người phạm tội.
- Nếu tài sản
bị chiếm đoạt đang ở trong sự chiếm hữu của người phạm tội thì hình thức thể
hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi giữa lại tài sản đáng lẽ phải
giao cho người bị lừa dối. Vì tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị
lừa dối đã nhận nhầm (nhận thiếu, sai loại tài sản được nhận) hoặc không nhận
được tài sản sản.
Trong cả hai
trường hợp trên, khi bị lừa dối, chủ tài sản “tự nguyện” giao tài sản cho người
phạm tội vì đã tin vào những thông tin giả dối mà người phạm tội đưa ra.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sảnlà hành vi
chiếm đoạt toàn bộ hay một phần tài sản đã được giao trên cơ sở hợp đồng đã
được ký kết giữa chủ tài sản và người có hành vi chiếm đoạt. Hành vi chiếm đoạt
ở đây là hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết. Đó là:
- Không trả lại
tài sản bằng thủ đoạn bỏ trốn hoặc thủ đoạn gian dối (như giả tạo bị mất; đánh
tráo tài sản; rút bớt tài sản...)
- Không trả lại
được tài sản do không có khả năng vì đã sử dụng vào mục đích bất hợp pháp (buôn
lậu, buôn bán hàng cấm hay đánh bạc...)
Ngoài những
điều kiện về tuổi và phải có năng lực TNHS tội này đòi hỏi chủ thể phải là
những người đã được chủ tài sản tín nhiệm giao cho khối lượng hàng nhất định
trên cơ sở giao tài sản là hợp đồng. Việc giao nhận tài sản hoàn toàn ngay
thẳng. Chủ tài sản do tín nhiệm đã giao tài sản để người được giao: Sử dụng;
bảo quản; vận chuyển; gia công; sửa chữa...Đối với tội này, giá trị tài sản bị
chiếm đoạt phải có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên thì mới cấu thành tội, nếu
dưới bốn triệu đồng thì phải hội đủ các điều kiện khác của điều luật như gây
hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc
đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm
thì mới phạm vào tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Nhìn
chung, cả hai tội đều có thủ đoạn gian dối là dấu hiệu đặc trưng của CTTP. Để
xem xét trường hợp trên K thuộc loại tội phạm nào, ta cần có sự so sánh, đối
chiếu những điểm khác nhau về dấu hiệu pháp lý của hai tội này.
Thứ
nhất, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ xảy ra trong lĩnh
vực hợp đồng, tức là người phạm tội thông qua việc ký kết hợp đồng. Còn tội
phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản xuất hiện trên mọi lĩnh vực với mọi thủ đoạn
gian dối, bao gồm cả lĩnh vực hợp đồng.
Thứ hai, xét về mặt
chủ quan của tội phạm, cụ thể là về thời điểm người phạm tội nảy sinh ý thức,
mong muốn chiếm đoạt tài sản:
- Lừa đảo chiếm đoạt tài sản: người phạm
tội có ý thức chiếm đoạt tài sản ngay từ đầu và để đạt được được mục đích chiếm
đoạt tài sản, họ chủ động thực hiện hành vi gian dối thông qua hình thức hợp
đồng để tạo lòng tin ở chủ tài sản. Do đó, người phạm tội nhận được tài sản từ
chủ tài sản và sau đó chiếm đoạt tài sản.
- Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:
ban đầu chưa ký kết hợp đồng, người phạm tội chưa có ý định chiếm đoạt tài sản.
Người phạm tội chỉ có ý định chiếm đoạt tài sản sau khi họ nhận được tài sản từ
chủ tài sản và thực hiện việc chiếm đoạt bằng thủ đoạn bỏ trốn hoặc gian dối.
Thứ
ba, về mặt khách quan, dấu hiệu “dùng thủ đoạn gian dối” trong trường
hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi đưa ra những thông tin không
đúng sự thật nhằm tạo lòng tin ở chủ tài sản và họ nguyện giao tài sản cho
người có thủ đoạn gian dối. Thủ đoạn này bao giờ cũng có trước hành vi nhận
được tài sản từ chủ tài sản và có trước hành vi chiếm đoạt tài sản.Còn trong
tội lạm dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản thì thời điểm xuất hiện thủ đoạn
gian dối này là khi người có hành vi gian dối đã nhận được tài sản do chủ tài
sản tín nhiệm giao cho. Việc nhận tài sản của người khác là hoàn toàn ngay
thẳng, hợp pháp.
Thứ tư, thủ đoạn gian dối trong tội lừa
đảo chiếm đoạt tài là cơ sở, tiền đề để tạo lòng tin cho người khác, làm cho
chủ tài sản nhầm lẫn mà chuyển giao tài sản cho người phạm tội. Còn với tội lạm
dụng tín nhiệm thì thủ đoạn gian dối không có ý nghĩa để thực hiện việc ký kết
hợp đồng và do đó không có ý nghĩa quyết định đến việc người phạm tội có chiếm
đoạt được tài sản hay không. Do vậy, hành vi gian dối như đánh tráo, rút bớt về
số lượng tài sản chủ yếu nhằm che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản.
Ở
tình huống trên, K không có ý thức chiếm đoạt tài sản ngay từ đầu. Cụ thể, K
không lợi dụng lòng tin của chủ tài sản. Việc Công ty X ký hợp đồng cho thuê K
chở hàng xuất phát từ ý chí của công ty đó, K không sử dụng thủ đoạn gian dối. Đồng
thời, thủ đoạn gian dối của K không có trước hành vi nhận được tài sản từ chủ
tài sản và có trước hành vi chiếm đoạt tài sản.
Như vậy, K không thể phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ta
thấy, trong 4 chuyến chở hàng đầu tiên, K đều chở đủ 30 bao hàng. Chỉ đến
chuyến hàng thứ 5, K mới có thủ đoạn gian dối trong việc chiếm đoạt thêm 2 bao
hàng nữa của Công ty trị giá 5 triệu đồng.
Như vậy, K chỉ có thủ đoạn này sau khi đã ký hợp đồng chở thuê cho Công
ty X. Hành vi gian dối của K không nhằm tạo lòng tin, sự nhầm lẫn trong việc ký
kết hợp đồng với chủ tài sản mà chỉ nhằm che giấu hành vi chiếm đoạt tài
sản.Như vậy, K có thể phạm tội Lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản.
Tuy
nhiên, để xác định một cách đúng đắn K có phạm tội Lạm dụng tín nhiệm nhằm
chiếm đoạt tài sản hay không ta cần phải căn cứ vào điều kiện: Hành vi phạm tội
của tội này là hành vi chiếm đoạt toàn bộ hay một phần tài sản đã được giao
trên cơ sở hợp đồng (hợp đồng chuyển thuê) được ký kết giữa chủ tài sản (công
ty X) với người có hành vi chiếm đoạt là K và giá trị tài sản đã đủ yếu tố cấu
thành tội (5 triệu đồng). Như vậy, chủ tài sản đã tín nhiệm giao tài sản cho K
trong quá trình vận chuyển hàng hóa từ Công ty X đến hợp tác xã M. Tuy nhiên,
Công ty X không có hợp đồng trong việc giao tài sản trong kho hàng cho K. Số
lượng hàng được bốc xếp lên xe vẫn được sự kiểm tra của thủ kho trước khi rời
Công ty (30 bao hàng 1 chuyến). K được tự ý vào bốc xếp hàng lên xe là do sự
thỏa thuận quen biết giữa thủ kho và K chứ không trên cơ sở hợp đồng và không
có sự “tự nguyện” giao tài sản của Công ty X. Sau khi bốc dỡ hàng lên xe, trước
khi ra khỏi công ty, trong mỗi chuyến hàng thủ kho đều kiểm tra đủ 30 bao hàng
và ký vào phiếu xuất kho. Trong chuyến hàng thứ 5, việc “Tin rằng K chở đủ số bao hàng như các chuyến trước, lại đã giữa trưa
nên thủ kho không đếm lại số bao hàng K vận chuyển mà ký xác nhận ngay vào
phiếu xuất 30 bao hàng” là sự sơ suất, sai sót trong việc kiểm tra hàng hóa
của thủ kho Công ty dẫn đến K chiếm đoạt thành công 2 bao hàng.
Như
vậy, trong trường hợp này, K không thể phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản được quy định tại Điều 140 BLHS.
b) Quan điểm
cho rằng K phạm tội Trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS) là đúng và có căn cứ. Cụ
thể như sau:
Theo quy định
tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và thực tiễn
xét xử thì: Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có
chủ và thuộc một trong các trường hợp sau:
- Tài sản chiếm
đoạt có giá trị từ hai triệu đồng trở lên
- Nếu dưới hai
triệu đồng mà:
+ Gây hậu quả
nghiêm trọng
+ Hoặc đã bị xử
phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm
+ Hoặc đã bị
kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Về mặt khách quan, dấu hiệu của tội
trộm cắp tài sản là dấu hiệu hành vi chiếm đoạt cùng với hai dấu hiệu khác là
dấu hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản đang có chủ.
Dấu hiệu chiếm
đoạt trong cấu thành tội trộm cắp tài sản được hiểu là chiếm đoạt được, tội này
chỉ coi là hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Thực tiễn
xét xử đã có nhận định về những trường hợp chiếm đoạt được tài sản ở tội này
như sau:
“ Nếu vật chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi đã
chiếm đoạt được khi người phạm tội đã giấu được tài sản trong người.
Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại nói
trên thì coi chiếm đoạt được khi đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo quản.
Nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở những nơi
không hình thành khu vực bảo quản riêng thì coi là đã chiếm đoạt được khi đã
dịch chuyển tài sản ra khỏi vị trí ban đầu”.
Ở trong tình
huống, dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện ở chỗ: K đã chiếm đoạt được tài sản
của Công ty X. Đó là 2 bao hàng có giá trị 5 triệu đồng. Theo quy định của Công
ty, K chỉ được phép chở đúng 30 bao hàng nhưng K đã chiếm đoạt thêm 2 bao hàng
nữa. Ở đây, tài sản mà K đã chiếm đoạt không phải là vật nhỏ gọn(không thể giấu
tài sản trong người). Như vậy, tội trộm cắp tài sản hoàn hoàn thành khi K đưa
được 2 bao hàng này lên xe, rời khỏi khu vực bảo quản (kho hàng).
Hành vi
chiếm đoạt của K là hành vi lén lút. Do được sự tin tưởng của thủ kho nên K
được vào kho tự bốc và xếp hàng lên xe, mỗi chuyến là 30 bao hàng ra cổng thủ
kho mới kiểm tra số hàng vận chuyển và ký vào phiếu xuất hàng. Lợi dụng lúc thủ
kho tin tưởng, để sơ hở nên K đã tiến hành việc chiếm đoạt thêm 2 bao hàng. Như
vậy, K đã có ý thức che giấu hành vi mà mình đang thực hiện.
Tài sản mà
K chiếm đoạt ở đây là tài sản đang có chủ. Chủ sở hữu những bao hàng này là
Công ty X. Vị trí ban đầu của 2 bao hàng là trong kho hàng của Công ty X, thuộc
quyền sở hữu của Công ty. K và Công ty X chỉ thỏa thuận ký kết hợp đồng trong
việc K chở số hàng hóa từ Công ty X sang hợp tác xã M chứ không thỏa thuận việc
K sẽ được vào kho để bốc dỡ hàng theo ý muốn của mình. Cho nên, hành vi của K
trong trường hợp này là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ.
Về mặt chủ
quan, người phạm tội trộm cắp tài sản khi thực hiện hành vi phạm tội nhận thức
rõ tài sản mình chiếm đoạt là tài sản có chủ. Ở đây K biết chủ sở hữu các bao
hàng là Công ty X, nhưng vẫn lợi dụng lúc thủ kho sơ hở, chủ quan để lén lút
chiếm đoạt. Việc trong chuyến thứ 5, thủ kho không kiểm tra số hàng mà ký luôn
vào phiếu xuất kho đã tạo điều kiện cho K thực hiện chiếm đoạt 2 bao hàng trót
lọt.
Như vậy, qua
những phân tích về dấu hiệu pháp lý trên đây của từng loại cấu thành tội phạm
càng khẳng định rõ hơn về hành vi K là
cấu thành tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm
2009).
2. Mở rộng điều tra, cơ quan điều tra còn xác
định được ngoài hành vi chiếm đoạt tài sản nói trên, K còn rút bớt mỗi chuyến
một số hàng hóa của Hợp tác xã M tổng giá trị là 10 triệu đồng. Hãy định tội
cho hành vi này.
Việc K rút
bớt mỗi chuyến một số hàng hóa của Hợp tác xã M tổng giá trị là 10 triệu đồng
cấu thành nên tội Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản(Điều 140 BLHS năm 1999).
Như chúng ta đã
phân tích ở trên Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sảnlà hành vi chiếm đoạt
toàn bộ hay một phần tài sản đã được giao trên cơ sở hợp đồng đã được ký kết
giữa chủ tài sản và người có hành vi chiếm đoạt. Hành vi chiếm đoạt ở đây là
hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết. Đó là:
- Không trả lại
tài sản bằng thủ đoạn bỏ trốn hoặc thủ đoạn gian dối (như giả tạo bị mất; đánh
tráo tài sản; rút bớt tài sản...)
- Không trả lại
được tài sản do không có khả năng vì đã sử dụng vào mục đích bất hợp pháp (buôn
lậu, buôn bán hàng cấm hay đánh bạc...)
Hành vi lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cấu thành khi thỏa mãn một trong số các dấu
hiệu sau:
- Tài sản chiếm
đoạt có giá trị từ 4.000.000 đồng trở lên. Trong trường hợp này, giá trị hàng
hóa K chiếm đoạt được có tổng trị giá là 10.000.000 đồng.
- Gây hậu quả
nghiêm trọng;
- Bị xử phạt
hành chính về hành vi chiếm đoạt;
- Đã bị kết án
về tội chiếm đoạt tài và chưa được xóa án tích.
* Chủ thể của
tội phạm
K đủ điều kiện
về tuổi và năng lực TNHS. K được công ty X tín nhiệm giao cho K khối lượng tài
sản nhất định (30 bao hàng mỗi chuyến) trên cơ sở giao tài sản là hợp đồng
chuyển thuê số hàng hóa từ Công ty đến hợp tác xã M. Việc giao và nhận là hoàn
toàn ngay thẳng. Công ty X tín nhiệm giao tài sản cho K trong quá trình vận
chuyển được bảo quản, vận chuyển.
* Hành vi phạm
tội
K
đã chiếm đoạt một phần tài sản đã được giao trên cơ sở hợp đồng chuyển thuê
giữa Công ty X và K. Đối tượng của hành vi chiếm đoạt trong tội này là những
bao hàng được giao ngay thẳng cho K trong quá trình vận chuyển. Ở đây, K đã
thực hiện hành vi chiếm đoạt là: rút bớt tài sản (trị giá 10 triệu đồng). Hành
vi gian dối của K có sau khi K và Công ty X đã thực hiện hợp đồng và hành vi gian
dối này nhằm che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản.
Như
vậy, có thể khẳng định hành vi rút bớt số hàng hóa trong quá trình vận chuyển
từ Công ty X sang Hợp tác xã M cấu thành nên tộiLạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 BLHS 1999).
3. Toàn bộ số tài sản chiếm đoạt được K đã bán
lại cho N. Theo anh (chị) N có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại
sao?
N có thể sẽ phải chịu TNHS về hành vi của
mình.
Để kết luận N
có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không ta cần xét xem giữa K và N có sự bàn
bạc, thỏa thuận từ trước với nhau hay không? Và xét đến yếu tố lỗi của N, có ba
trường hợp sau đây:
- Trường
hợp 1: Nếu giữa K và N có sự thỏa thuận về việc cất giấu và tiêu thụ
tài sản trước khi hành vi phạm tội của K xảy ra thì người có hành vi chứa chấp,
tiêu thụ sẽ bị coi là đồng phạm giúp sức theo Điều 20 BLHS.
- Trường hợp 2 : Nếu giữa K và N
không có sự thỏa thuận, bàn bạc trước, N có hành vi chứa chấp tài sản mà biết
rằng tài sản đó có được bằng con đường phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp thì N sẽ
bị truy cứu TNHS về Tội chứa chấp tài sản
do người khác phạm tội mà có (Điều 250 BLHS).
+ Về mặt khách
quan: Hành vi chứa chấp và hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có chỉ bị xử lý theo Điều 250 khi hành vi đó thực hiện mà không có sự thỏa
thuận hay hứa hẹn trước.
Hành vi
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người phạm tội mà có thể hiện bằng các hành
vi như: cho người phạm tội cất giấu tài sản do phạm tội mà có; chuyển đổi tài
sản do phạm tội mà có thành tài sản hợp pháp, mua lại hoặc đem bán lại bộ tài
sản mà biết đó là tài sản phạm tội mà có…
+ Về mặt chủ quan: Lỗi của người phạm
tội là lỗi cố ý trực tiếp nên người có hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
phải chịu trách nhiệm hình sự khi biết tài sản đó là do người khác phạm tội mà
có.
- Trường
hợp 3: Nếu N không biết và không có khả năng biết tài sản của K là sở
hữu bất hợp pháp thì N không phải chịu TNHS về tội chứa chấp và tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có. Tuy nhiên, xét hoàn cảnh thực tế nếu một
người có thể không biết nhưng hoàn toàn có khả năng nhận biết được tài sản nào
đó là tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn chứa chấp hoặc tiêu thụ
thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 250 BLHS.
Như vậy, N có thể phải chịu TNHS về hành vi mua lại số hàng hóa mà K đã chiếm
đoạt của Công ty X.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học
Luật Hà Nội,Giáo trình Luật Hình sự Việt
Nam tập 2 - NXB Công an nhân dân, 2009
2. Đinh Văn Quế,
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần
các tội phạm tập 2 - NXB TP Hồ Chí Minh, 2002.
3. Bộ luật hình sự - NXB Tư pháp, 2009
4.TS. Dương Tuyết
Miên - Định tội danh và Quyết định hình
phạt - NXB Lao động xã hội
5. TS. Đỗ Đức
Hồng Hà - Bài tập Luật hình sự và Tố tụng
hình sự - NXB Tư pháp
MỤC LỤC
TÌNH HUỐNG.............................................................................................. 0
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG...................................................................... 1
1. Anh (chị) hãy bác
bỏ các ý kiến sai; Xác định ý kiến đúng và giải thích rõ tại sao? 1
2. Mở rộng điều tra,
cơ quan điều tra còn xác định được ngoài hành vi chiếm đoạt tài sản nói trên, K
còn rút bớt mỗi chuyến một số hàng hóa của Hợp tác xã M tổng giá trị là 10
triệu đồng. Hãy định tội cho hành vi này............................................ 7
3. Toàn bộ số tài sản
chiếm đoạt được K đã bán lại cho N. Theo anh (chị) N có phải chịu TNHS về hành
vi của mình không? Tại sao?........................................... 9
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 10
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét