Thứ Hai, 27 tháng 6, 2016

BÀI TẬP NHÓM MÔN CÔNG PHÁP QUỐC TẾ











NỘI DUNG
I. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÔNG ƯỚC BIỂN 1982 VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VÙNG BIỂN
1. Các văn bản pháp luật về vùng biển của Việt Nam trong thời kỳ công ước 1982 chưa có hiệu lực
Những văn bản pháp luật quốc gia quan trọng được ban hành phù hợp với công ước luật biển 1982 ở Việt Nam trong thời gian trước khi công ước này chính thức có hiệu lực: Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/11/1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam; Bộ luật hàng hải năm 1990. Phần lớn những văn bản pháp luật được xây dựng và ban hành đều có sự hài hòa nhất định với dự thảo công ước và một số các điều ước quốc tế song phương, đa phương khác mà Việt Nam đã là thành viên, điều này đã khắc phục được một phần quan trọng sự chậm trễ của công tác lập pháp trong nước và nhất là tạo được cơ sở pháp lí để tham gia các hoạt động kinh tế- thương mại-hàng hải quốc tế.
2. Công ước luật biển 1982 góp vai trò hoàn thiện pháp luật về biển quan của Việt Nam:
Trên thực tế lập pháp và thực thi pháp luật tại Việt Nam nhiều quy định của Công ước 1982 đã được nội luật hóa vào trong văn bản dưới luật và các luật liên quan (Luật biên giới, Luật hàng hải, Luật thủy sản, Luật dầu khí…). Nội luật hóa các quy đinh về các vùng biển chủ quyền và quyền chủ quyền: Các văn bản dưới luật như Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/11/1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam và trong Luật biền giới quốc gia năm 2003, quan điểm về các vùng biển nội thủy, lãnh hải, tiếp giáp, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với quy định của Công ước 1982.
Việt Nam đã có các hoạt động lập pháp tích cực để tạo sự hài hòa giữa pháp luật Việt Nam về biển với các quy định của Công ước để đảm bảo môi trường pháp luật quốc gia thuận lợi cho quá trình hiện thực hóa công ước tại Việt Nam.
II. SỰ TƯƠNG THÍCH VỀ CÁCH XÁC ĐỊNH VÀ QUY CHẾ PHÁP LÝ VÙNG BIỂN CỦA LUẬT CÔNG ƯỚC BIỂN 1982 VÀ LUẬT BIỂN VIỆT NAM
1. Vùng nội thủy
1.1. Cách xác định và quy chế pháp lý vùng nội thủy theo Công ước Biển 1982
- Cách xác định: Khoản 1 Điều 8 Công ước Biển 1982 quy định: “…các vùng nước  ở phía bên trong đường cơ sở của lãnh hải thuộc nội thủy của quốc gia”. Như vậy, nội thủy được xác định là vùng nước biển nằm phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển của quốc gia ven biển. Ranh giới phía trong của nội thủy là bờ biển. Ranh giới phía ngoài của nội thủy là đường cơ sở. Đối với các quốc gia quần đảo, vùng nước này là toàn bộ phần nước biển nằm trong đường cơ sở của quốc gia quần đảo, được gọi là vùng nước quần đảo. Không phải bất kỳ vùng nước quần đảo nào cũng có nội thủy, chỉ có những ….Để xác định được nội thủy cũng như lãnh hải và các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia phải xác định được đường cơ sở.
Theo quy định tại Điều 5 và Điều 7 của Công ước 1982, có hai phương pháp để xác định đường cơ sở đó là phương pháp đường cơ sở thông thường và phương pháp đường cơ sở thẳng. Đường cơ sở thông thường áp dụng đối với các quốc gia có bờ biển thẳng, bằng phẳng, không có các đoạn lồi lõm ven bờ, thủy triều ổn định và thể hiện rõ ràng. Để xác định đường cơ sở thông thường, các quốc gia ven biển sẽ chọn một ngày, tháng, năm khi ngấn nước thủy triều xuống thấp nhất dọc bờ biển để tuyên bố đường cơ sở của quốc gia mình. Đường cơ sở thẳng được áp dụng với các quốc gia thuộc 1 trong các trường hợp: Thứ nhất: Bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc có một chuỗi đảo nằm sát và chạy dọc theo bờ biển (khoản 1, Điều 7), Bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và những đặc điểm tự nhiên khác...(khoản 2, Điều 7). Trong trường hợp này, đường cơ sở là đường thẳng gãy khúc được xác định bằng cách nối các điểm nhô ra xa nhất của các đảo ven bờ, của các mũi, các đỉnh chạy dọc theo chiều hướng chung của bờ biển lại với nhau thành đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải. Các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển, và các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn với đắt liền đủ đến mức đạt được chế độ nội thủy.
- Quy chế pháp lý: Theo Công ước, trong vùng nước nội thuỷ, các quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ như trên lãnh thổ đất liền của mình.Tàu thuyền nước ngoài muốn ra vào vùng nước nội thuỷ phải xin phép quốc gia ven biển và phải tuân theo luật lệ của quốc gia đó. Quốc gia ven biển có quyền không cho phép tàu thuyền đó được hoạt động trong vùng nước nội thuỷ của quốc gia mình. Tuy nhiên, vẫn có đôi chút khác biệt giữa chủ quyền trong vùng nước nội thuỷ và chủ quyền trên lãnh thổ đất liền ở một số
1.1. Cách xác định và quy chế pháp lý vùng nội thủy theo pháp luật Việt Nam
            - Cách xác định: Đối với phạm vi nội thủy, trong Tuyên bố ngày 12 tháng 5 năm 1977 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam quy định “Vùng biển ở phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển là nội thuỷ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tại Chương II, Điều 9 Luật Biển 2012 cũng thống nhất quan điểm: Nội thủy là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam”. Tại Tuyên bố năm 1982, Chính phủ quy định tính chiều rộng lãnh hải theo đường cơ sở thẳng, bao gồm các đoạn thẳng gẫy khúc nối liền các điểm có tọa độ ghi trong Phụ lục đính theo Tuyên bố. Tại Luật biển 2012, Việt Nam tiếp tục khẳng định lại tại Chương II Điều 8 “Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ công bố…”.
- Quy chế pháp lý: Điều 10 Luật biển Việt Nam quy định: “Chế độ pháp lý của nội thuỷ Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy như trên lãnh thổ đất liền”. Do có chủ quyền tuyệt đối đối với vùng nội thủy nên mọi sự ra vào của tàu quân sự và tàu nhà nước sử dụng vào mục đích phi thương mại muốn vào nội thủy quốc gia ven biển phải xin phép trước, trừ những trường hợp bất khả kháng hoặc các lý do nhân đạo thì chỉ cần thông báo trước khi vào nội thủy. Cụ thể: Theo Điều 8 Nghị định 30-CP năm 1980 quy chế cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng biển của Việt Nam: “Khi vào nội thủy, tàu quân sự nước ngoài phải tuân thủ các quy định của quốc gia ven biển. Các Tàu thuyền nước ngoài khi ở trong nội thuỷ Việt Nam, ngoài sắc cờ của nước mà tàu mang quốc tịch, phải treo quốc kỳ Việt Nam ở đỉnh cột tàu cao nhất phía trước; phải chấp hành đầy đủ các quy định về đèn tín hiệu phù hợp với các loại tàu và hoạt động của tàu, do các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam ban hành và phù hợp với các quy định chung của luật quốc tế về giao thông trên biển”. Bên cạnh đó, Việt Nam có quyền thực hiện các quyền tài phán về dân sự và quân sự khi có sự vi phạm của tàu thuyên nước ngoài hoạt động trong vùng nội thủy.
3. Bình luận
Vùng nội thủy là vùng các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền tuyệt đối vì thế dễ dẫn đến việc các quốc gia có xu hướng xác định đường cơ sở có lợi cho mình, trái với Công ước. Trước khi có Công ước Biển năm 1972, Việt Nam đã xác định nội thủy là vùng biển trong đường cơ sở và giáp bờ biển. Sau khi Công ước có hiệu lực, Việt Nam tiếp tục khẳng định và tuân thủ phạm vi nội thủy. Đối với cách xác định đường cơ sở, trên thực tế, bờ biển nước ta khúc khuỷu và lồi lõm đặc biệt là hai đồng bằng châu thổ lớn: đồng bằng châu thổ sông Hồng và đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Ngoài ra, vùng biển nước ta có các chuỗi đảo nằm sát nhau và chạy dọc bờ biển. Điển hình như chuỗi đảo Hòn Tài Lớn, Hòn Bông Lang, Hòn Bảy Cạnh (Côn Đảo), Hòn Hải, Hòn Đôi (Thuận Hải) tạo thành các điểm nối đường cơ sở A4, A5, A6, A7. Vì thể, nước ta không thể áp dụng đường cơ sở thông thường. Xét về cấu trúc vùng biển Việt Nam hoàn toàn đáp ứng các điều kiện để áp dụng phương pháp đường cơ sở thẳng, tương ứng với một trong hai cách xác định đường cơ sở của Công ước Biển 1982.
Tuân theo quy định của Công ước về quyền chủ quyền tuyệt đối của quốc gia ven biển, Việt Nam đã có những quy định cụ thể và chặt chẽ về hoạt động đi lại, thông thương của tàu thuyền nước ngoài vào vùng nội thủy. Vì đây là lợi ích hợp pháp của các quốc gia ven biển nên trước khi Công ước biển ra đời thì việc quản lý hoạt động đi lại ở nội thủy đã trở thành tập quán quốc tế. Vì vậy, việc Việt Nam tuân theo Công ước biển về vấn đề này hoàn toàn hợp lý và dễ dàng.
Như vậy, việc cách xác định và quy chế pháp lý vùng nội thủy của pháp luật Việt Nam hoàn toàn thống nhất, phù hợp với Công ước Luật biển 1982.
2. Lãnh hải
1.1. Cách xác định và quy chế pháp lí vùng lãnh hải của Công ước biển
- Cách xác định vùng lãnh hải: Theo Điều 2 Công ước 1982: “chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình, trong trường hợp quốc gia quần đảo, ra ngoài vùng nước quần đảo đến một vùng gọi là lãnh hải. Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển”. Lãnh hải là vùng biển nằm giữa nội thủy và vùng biển thuộc quyền chủ quyền. Điều 3 Công ước 1982 quy định chiều rộng lãnh hải như sau: “Mọi quốc gia đều có ấn định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước”.  Để xác định chiều rộng lãnh hải, Công ước 1982 ghi nhận hai phương pháp xác định đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải: đường cơ sở thông thường (Điều 5) và đường cơ sở thẳng (Điều 7). Cách xác định đường cơ sở đã được nêu ở vùng nội thủy. Xác định chiều rộng của lãnh hải sẽ được tiến hành trong hai trường hợp khác nhau. Thứ nhất, nếu quốc gia không đối diện, không tiếp giáp với các quốc gia khác trên biển thì căn cứ vào đặc điểm địa hình của bờ biển và các quy định của Công ước 1982 để xác định đường cơ sở và tuyên bố chiều rộng của lãnh hải (không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở). Trong trường hợp này, ranh giới phía ngoài của lãnh hải chính là đường biên giới quốc gia trên biển. Thứ hai, việc hoạch định ranh giới lãnh hải (biên giới quốc gia trên biển) giữa hai quốc gia có bờ biển liền kề hoặc đối diện nhau. Theo quy định tại Điều 15 Công ước 1982: “Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau không quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những danh nghĩa lịch sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định ranh giới lãnh hải của hai quốc gia một cách khác”.
- Quy chế pháp lí vùng lãnh hải: Quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ đối với vùng lãnh hải của nước mình. Chủ quyền này không phải hoàn toàn và tuyệt đối như vùng nội thủy của quốc gia, do việc cộng đồng quốc tế thừa nhận quyền qua lại vô hại của tàu thuyền nước ngoài trong vùng lãnh hải (Điều 17) nhưng bên cạnh đó quốc gia ven biển có thẩm quyền tài phán (thẩm quyền tài phán hình sự Điều 27 và thẩm quyền tài phán dân sự Điều 28) khi có sự vi phạm của tàu thuyền nước ngoài trên lãnh hải của mình.
1.2. Cách xác định và quy chế pháp lí vùng lãnh hải của Luật Biển Việt Nam
1.2.1. Cách xác định lãnh hải
           
1.2.2. Quy chế pháp lí của vùng lãnh hải
Khác với vùng nội thủy, ở vùng lãnh hải các tàu thuyền nước ngoài được quyền qua lại không gây hại. Khoản 9, Điều 4 Luật biên giới quốc gia năm 2003 định nghĩa: đi qua không gây hại trong lãnh hải là việc tàu thuyền nước ngoài đi trong lãnh hải Việt Nam nhưng không làm phương hại đến hòa bình, an ninh, trật tự, môi trường sinh thái của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Trong trường hợp khẩn cấp không thể khắc phục được như gặp thiên tai, tai nạn uy hiếp đến an toàn của tàu thuyền và sinh mạng của những người đi trên tàu thuyền… bắt buộc phải dừng lại hoặc thả neo trong lãnh hải Việt Nam, thì phải tìm mọi cách liên lạc nhanh chóng và báo cáo lập tức với cơ quan có thẩm quyền Việt Nam nơi gần nhất; phải chịu mọi sự kiểm soát của các nhà chức trách Việt Nam để làm rõ tính chân thực của lý do nêu ra, và phải tuân theo mọi hướng dẫn của các nhà chức trách Việt Nam (Điều 6 NĐ 30-CP). Tuy nhiên, Việt Nam có thể tạm thời đình chỉ việc thực hiện quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài tại các khu vực nhất định trong lãnh hải của mình, nếu biện pháp này là cần thiết để bảo đảm an ninh của mình.
Nếu có hành vi qua lại gây hại cho lãnh hải của Việt Nam, Việt nam có quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng lãnh hải

1.3. Bình luận về sự tương thích trong việc xác định và quy chế pháp lí của vùng lãnh hải của Việt Nam với Công ước Luật biển 1982
1.3.1. Về cách xác định
Trên phương diện vị trí địa lý, Việt Nam có vùng biển không đối diện, không tiếp giáp với các quốc gia khác trên biển nên theo quy định của Công ước Biển 1982, chiều rộng của lãnh hải nước ta là 12 hải lý trên cơ sở đường cơ sở thẳng. Tuy nhiên, việc xác định đường cơ sở của Việt Nam còn có một số mâu thuẫn dẫn đến việc xác định nội thủy và lãnh hải sẽ có sự chênh lệch. Việc Việt Nam xác định nội thủy, lãnh hải theo đường cơ sở thẳng là hoàn toàn phù hợp tuy nhiên việc xác định điểm nhô ra xa nhất của các đảo ven bờ lại còn nhiều tranh cãi. Đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam có độ dài trung bình 85 hải lý, với hơn một nửa số đoạn dài trên 100 hải lý (trong khi đó, theo văn phòng luật pháp Liên hợp quốc khuyến cáo thì chiều dài của đoạn cơ sở thẳng không quá 60 hải lý), các đoạn nối các điểm A3, A4, A5 nằm trên Côn Đảo với điểm A6 nằm trên đảo Hòn Hải đi chệch hướng chung của bờ biển (góc lệch với xu thế chung của bờ biển là 200).
Quy chế pháp lý vùng lãnh hải thuộc chủ quyền Việt Nam đã có sự phù hợp nhất định với Công ước 1982 về vấn đề qua lại vô hại của tàu thuyền nước ngoài. Tuy nhiên, Luật Biển Việt Nam có một số nét khác biệt so với Công ước 1982:  Luật Biển Việt Nam quy định tàu thuyền quân sự nước ngoài phải thông báo với Việt Nam trước khi sử dụng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, trong khi Công ước 1982 không đòi hỏi phải thông báo.
3. Vùng tiếp giáp:
3.1 Cách xác định và quy chế pháp lý của Công ước Biển:
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, tại đó quốc gia ven biển thực hiện các thẩm quyền có tính riêng biệt và hạn chế đối với các tàu thuyền nước ngoài.
- Cách xác định: Theo khoản 2, Điều 33 Công ước 1982: “Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải”. Như vậy, muốn xác định được vùng tiếp giáp lãnh hải, quốc gia ven biển phải xác định đường cơ sở và chiều rộng của lãnh hải. Đối với những quốc gia quy định lãnh hải rộng 12 hải lý thì vùng tiếp giáp lãnh hải của họ có chiều rộng thực tế tối đa là 12 hải lý và hợp với lãnh hải thành vùng biển có chiều rộng 24 hải lý.
- Quy chế pháp lý: Vùng tiếp giáp lãnh hải không phải là lãnh thổ của quốc gia ven biển cũng không phải là một bộ phận của biển quốc tế. Chính vì vậy, vùng tiếp giáp lãnh hải khác về bản chất so với lãnh hải. Nếu như lãnh hải là một bộ phận cấu thành của lãnh thổ quốc gia, thuộc chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ của quốc gia thì vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển[1]
Về quyền tài phán, sự tồn tài của vùng tiếp giáp lãnh hải trong thực tế nhằm:
- Ngăn ngừa những vi phạm đối với các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
- Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
3.1. Cách xác định và quy chế pháp lý của Luật biển Việt Nam
- Cách xác định: Theo Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam quy định: “Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải Việt Nam có chiều rộng là 12 hải lý hợp với lãnh hải Việt Nam thành vùng biển rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải Việt Nam”. Cách xác định vùng tiếp giáp lãnh hải được pháp luật Việt Nam cụ quy định cụ thể tại Điều 13 Luật Biển Việt Nam: ”Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải”.
     - Chế độ pháp lý: Nghị định 30-CP ngày 29/1/1980 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về chế độ hoạt động của tàu thuyền nước ngoài tại các vùng biển của Việt Nam quy định: “Tàu thuyền quân sự (bao gồm cả tàu chiến và tàu bổ trợ) muốn vào vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam phải xin phép Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (qua đường ngoại giao) ít nhất 30 ngày trước, và sau khi được phép vào, phải thông báo cho nhà đương cục quân sự Việt Nam (qua Bộ Giao thông vận tải nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) 48 giờ trước khi bắt đầu đi vào vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam” (điểm c, Điều 3).
Tại Điều 14 Luật biển về chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải quy định: “1. Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và các quyền khác quy định tại Điều 16 của Luật này đối với vùng tiếp giáp lãnh hải; 2. Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm ngăn ngừa và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam”
c. Sự tương thích:
     - Về cách xác định:  Điều 13 Luật biển thì Việt Nam có một vùng tiếp giáp lãnh hải rộng 12 hải lý liền tiếp với lãnh hải và tạo với lãnh hải một vùng biển rộng 24 hải lý tính từ đường cơ sở. Như vậy cách xác định bề rộng của vùng tiếp giáp lãnh hải này hoàn toàn phù hợp với Điều 33 của Công ước 1982. Như ta thấy thì việc xác định vùng tiếp giáp lãnh hải phụ thuộc vào việc xác định của vùng lãnh hải và đường cơ sở. Mà theo Điều 3 Công ước biển 1982 quy định mọi quốc gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở và theo Điều 33 quy định khoảng cách của vùng tiếp giáp lãnh hải là không rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải được vạch ra đúng theo Công ước. Nguyên tắc không quá 24 hải lý cho chiều rộng vùng tiếp giáp lãnh hải đã trở thành một nguyên tắc tập quán và được khẳng định bằng thực tiễn thống nhất và được ghi nhận trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
- Về chế độ pháp lý: Do đây là khu vực Ngoài những nội dung đã được quy định trong Công ước luật biển 1982, do tình hình và đặc điểm riêng của nước ta đã quy định về việc kiểm soát cần thiết đối với người và tàu thuyền nước ngoài nhằm ngăn chặn và trừng trị những vụ vi phạm đối với pháp luật Việt Nam về an ninh và di cư trên lãnh hải Việt Nam. So với Điều 33 của Công ước Luật biển 1982, Việt Nam quy định thêm thẩm quyền bảo vệ an ninh trong vùng tiếp giáp lãnh hải. Bên cạnh đó, các quy định pháp luật Việt Nam về vùng tiếp giáp lãnh hải chưa có các quy định điều chỉnh quyền lợi của Việt Nam khi phát hiện ra và trục vớt hiện vật lịch sử, di tích khảo cổ lên trong vùng biển này, nhưng theo quy định của Công ước Luật biển 1982 thì quốc gia ven biển sẽ có quyền đối với các hiện vật khảo cổ và lịch sử được phát hiện ở vùng tiếp giáp lãnh hải. Việc bỏ quên không quy định quyền đối với các hiện vật lịch sử và khảo cổ phát hiện ra và trục vớt lên trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Việt nam với tư cách một quốc gia ven biển, nằm trên ngã tư các đường hàng hải quốc tế trong khu vực, nơi đánh dấu rất nhiều vụ chìm tàu trong lịch sử, đã gây tổn hại không nhỏ cho quyền lợi của Việt Nam.
III. NHẬN XÉT CHUNG VỀ SỰ TƯƠNG THÍCH VÀ ĐƯA RA 1 SỐ HẠN CHẾ
Trước khi có Công ước Biển 1982, việc xác định và đưa ra quy định pháp lý của các vùng biển đã được các quốc gia thực hiện như một tập quán quốc tế. Những quy định của Công ước là kết quả của quá trình  hợp tác, đấu tranh, thỏa hiệp và xây dựng trong nhiều năm giữa các quốc gia trên thế giới với các chế độ chính trị - xã hội, trình độ phát triển kinh tế, góc nhìn luật pháp khác nhau. Công ước Biển là sản phẩm của sự thống nhất chung nên khi áp dụng các quy định của Công ước biển 1982 vào thực tế của quốc gia mình, các quốc gia vẫn đạt được những quyền lợi nhất định và chịu những ràng buộc tương xứng. Công ước biển chính là một bản Hiến pháp về Đại dương vì vậy khi ban hành những văn bản pháp lý riêng về biển, các quốc gia buộc phải tuân theo những điều ước đã ký kết trong Công ước. Vì vậy khi xây dựng các văn bản pháp lý về biển, tính tương thích với Công ước Biển 1982 là một trong những ưu tiên hàng đầu của nhà làm luật.
Việt Nam có rất nhiều văn bản pháp lý quy định về các vùng biển: từ Hiến pháp[2] đến các luật và các văn bản dưới luật như Luật hình sự Việt Nam năm 1999[3], Luật biên giới quốc gia năm 2003[4], Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ngày 12/5/1977 (đoạn 2, điểm 1), Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải Việt Nam ngày 12/11.1982 (điểm 5), Nghị định 30-CP ngày 29-1-1980 về quy chế hoạt động của tàu thuyền nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam, Nghị định số 55-CP ngày 1-10-1996 về hoạt động của tàu quân sự vào thăm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định 71/2006/NĐ-CP về quản lý cảng biển và luồng hàng hải, Nghị định 61/2003/NĐ-CP về quy chế khu vực biên giới biển...Đặc biệt là sự ra đời của Luật Biển Việt Nam đã quy định đầy đủ chế độ pháp lý của các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam theo đúng nội dung của Công ước. Trải qua thời gian, các văn bản pháp lý dần được hoàn thiện, bổ sung thêm nhiều vấn đề thực tiễn nhưng vẫn phù hợp với các quy định chung của Công ước biển 1982. Tính tương thích giữa Công ước biển 1982 với quy định pháp luật Việt Nam về vùng biển được thể hiện ở: cách xác định và quy chế pháp lý. Có thể nhận thấy khái niệm Nội thủy, Lãnh hải, Vùng tiếp giáp lãnh hải, Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trong các quy định của pháp luật Việt Nam đều dựa trên khái niệm nêu tại Công ước biển. Chế độ pháp lý đối với các Vùng Biển Việt Nam cũng phù hợp với quy định của Công ước biển 1982. Quy chế pháp lý các vùng biển nước ta quy định trong các văn bản pháp lý cũng hoàn toàn phù hợp với các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982.
Như vậy, gần như quy định của Công ước Biển đã được áp dụng trực tiếp vào Việt Nam. Tuy nhiên, vì là văn bản pháp lý khung, “Bản hiến pháp về biển” của các quốc gia nên trong quá trình nội luật hóa, Việt Nam có thể bổ sung thêm những quan tâm chính đáng của mình về những vấn đề mà Công ước Biển không đề cập đến như vấn đề chủ quyền. Sự nội luật hóa này là cần thiết để dễ tiếp cận và giải thích hơn đối với các công dân VN và nước ngoài, đối tượng trực tiếp thực hiện các hoạt động biển và chịu tác động của luật Biển trên các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, phù hợp với các quy định của luật quốc tế.
KẾT LUẬN
            Từ những vấn đề nêu trên ta có thể nhận thấy rõ nét rằng Luật biển Việt Nam 2012 đã dựa trên những nguyên tắc, những nội dung cơ bản mà Công ước Luật biển 1982 đã đề cập đến. Điều đó chứng tỏ rằng giữa UNCLOS và Luật biển Việt Nam có sự tương thích trong cách xác định và quy chế pháp lý các vùng biển. Hơn thế nữa từ sự tương thích đó là sự vận dụng linh hoạt trong cách thức lập pháp của Việt Nam đối với việc vận dụng điều ước quốc tế đã tham gia.
Tuy nhiên, hệ thống đường cơ sở của Việt Nam vẫn chưa bao quát hết chiều dài bờ biển vì còn có hai vị trí chưa xác định, đó là điểm số 0 nằm trên vùng nước lịch sử của Cộng hòa nhân dân Cămpuchia và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và phần còn lại từ đảo Cồn Cỏ cho tới hết vùng biển phía Bắc của Việt Nam. Tuyên bố về đường cơ cơ sở của Việt Nam đưa ra trong bối cảnh tranh chấp rất phức tạp trên biển Đông, tất cả các vùng chồng lấn giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực chưa được giải quyết hoặc đang trong giai đoạn đàm phán nên chúng ta chưa thể xác định hệ thống đường cơ sở hoàn chỉnh, khép kín vào thời điểm đó. Tuyên bố đã nêu rõ, đoạn đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến cửa vịnh Bắc Bộ sẽ được công bố sau khi vấn đề của vịnh được giải quyết[5].

Cũng như các đạo luật về biển của các nước ven biển khác, trọng tâm của Luật Biển Việt Nam là quy định về các vùng biển của Việt Nam (nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa) và các hải đảo. Khi đối chiếu nội dung các điều khoản của Luật Biển Việt Nam và UNCLOS 1982, dễ dàng thấy rằng quy định của các điều 9, 10 , 11, 12, 13, 14, 15, 15, 17, 18 và 19 v.v… trong Luật Biển Việt Nam về chiều rộng và quy chế pháp lý các vùng biển Việt Nam là bản sao các quy định tương ứng trong các Điều 2, 3, 19, 21, 23, 33, 57, 58, 76 và 77 v.v… của UNCLOS 1982. Về các quyền tài phán hình sự và dân sự ở trên một tàu nước ngoài, quy định của các Điều 30 và 31 Luật Biển Việt Nam cũng tương tự như quy định của các Điều 28 và 29 trong UNCLOS.



[1] Bài thuyết trình: “Cách xác định và chế độ pháp lý của các vùng biển theo công ước của Liên hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982”, Hướng dẫn: Ths. Ngô Hữu Phước, Trưởng Bộ môn Công pháp quốc tế, trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh            
[2]. Điều 1 Hiến pháp năm 1982 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời”.
[3]  Điều 273: Tội vi phạm quy chế về khu vực biên giới; Điều 274: Tội xuất cảnh, nhập cảnh trái phép…
[4]. Điều 7 quy định: “Nội thủy của Việt Nam bao gồm: 1. Các vùng nước phía trong đường cơ sở; 2. Vùng nước cảng được giới hạn bởi đường nối các điểm nhô ra ngoài khơi xa nhất của các công trình thiết bị thường xuyên là bộ phận hữu cơ của hệ thống cảng”.
[5]. Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam ngày 12-11-1982.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét