LỜI
MỞ ĐẦU
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn ở nước ta
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và trước nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
cũng như vấn đề toàn cầu hóa quan hệ lao động, hình thành thị trường sức lao động,
thì vấn đề xác định nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng
lao động là vấn đề vừa cần thiết, vừa tất yếu. Và trong khuôn khổ bài viết,
chúng ta sẽ đi phân tích nguyên tắc này để thấy được sự cần thiết và tất yếu đó.
NỘI
DUNG
1.
Cơ sở xác định nguyên tắc.
Trong lí luận về nhà nước và pháp luật
hiện nay, nguyên tắc của ngành luật (lĩnh vực pháp luật) thường được hiểu là những
tư tưởng chính trị, pháp lý…cơ bản được định ra để thống nhất nội dung điều chỉnh
pháp luật trong khâu soạn thảo, ban hành, giải thích pháp luật và chỉ đạo các
hoạt động thực tế trong việc áp dụng pháp luật.
Đối với lĩnh vực lao động, việc xác định
nguyên tắc này trước hết trên cơ sở
đường lối, chính sách của Đảng. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng đã đưa ra chủ trương: “ các
doanh nghiệp được tự chủ trong việc trả lương và tiền thưởng…Nhà nước tôn trọng
thu nhập hợp pháp của người kinh doanh”[1].
Thực hiện nguyên tắc này cũng là sự cụ thể hóa và phát triển thêm quyền tự do
kinh doanh, quyền sở hữu vốn và tài sản hợp pháp của công dân đã được Hiến pháp
năm 1992 quy định tại Điều 57, Điều 58.
Thứ
hai,
xuất phát từ vai trò của người sử dụng lao động trong quan hệ lao động. Mặc dù,
Nguyên tắc này có phạm vi hẹp hơn nhiều so với nguyên tắc bảo vệ người lao động.
Điều đó do các bên có vị thế khác nhau trong quan hệ lao động nên luật lao động
bảo vệ họ ở những mức độ khác nhau. Trong quan hệ lao động, người sử dụng lao động
có quyền quản lý nên không cần thiết phải bảo vệ họ ở tất cả các phương diện
như đối với người lao động – người có nghĩa vụ phải tuân thủ. Tuy nhiên, pháp
luật lao động phải bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ là một bên không
thể thiếu để hình thành và duy trì quan hệ lao động. Nếu không thu được các quyền
và lợi ích cần thiết trong quá trình sử dụng lao động thì họ và các nhà tư tiềm
năng khác sẽ không tiếp tục đầu tư, giải quyết việc làm cho người lao động và
phát triển kinh tế đất nước.
2.
Nội dung nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng lao động là đảm bảo các quyền và lợi ích mà pháp luật đã quy định
cho người sử dụng lao động được thực hiện, không bị các chủ thể khác xâm hại.
Trong quan hệ lao động, người sử dụng lao động được bảo đảm đầy đủ các quyền đối
với tài sản đưa vào sản xuất kinh doanh, được tự chủ trong quản lý và phân phối sản phẩm. Họ có quyền tự do liên kết
và phát triển trong quá trình sử dụng lao động. Cụ thể, người sử dụng lao động được bảo đảm các quyền và lợi ích
sau:
-
Được tuyển chọn, sử dụng, tăng giảm lao động theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
-
Được quản lý, điều hành lao động, ban hành nội quy và thực hiện các chế độ khen
thưởng, kỷ luật, chấm dứt hợp đồng đối với người lao động;
-
Được sở hữu tài sản hợp pháp trong và sau quá trình lao động, tự chủ trong phân
phối, trả lương cho người lao động theo quy định của pháp luật;
-
Được phối hợp với tổ chức công đoàn trong quản lý lao động và ký kết thỏa ước
lao động tập thể phù hợp với điều kiện của đơn vị;
-
Được Nhà nước ưu đãi, hỗ trợ nếu gặp khó khăn hoặc đủ các điều kiện khác do
pháp luật quy định;
-
Được đảm bảo bồi thường thiệt hại nếu bị người lao động hoặc các chủ thể khác
xâm hại lợi ích hợp pháp;
-
Được tham gia tổ chức của giới sử dụng lao động theo quy định của pháp luật;
theo quy định hiện hành, tổ chức đại diện người sử dụng lao động hiện nay gồm: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI) và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam
(VAC).
- Được yêu cầu người lao động và các đối tác
khác tôn trọng quyền và lợi ích của mình, nếu bị xâm hại có thể yêu cầu các cơ
quan có thẩm quyền can thiệp, bảo vệ.
Như
vậy,
pháp luật lao động đã ghi nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao
động trong nhiều chế định và bảo vệ cho họ ở mức độ cần thiết.
3.
Ý nghĩa của nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động.
Việc pháp luật quy định nguyên tắc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động có ý nghĩa :
Thứ
nhất,
giải quyết vấn đề lợi ích hợp lý của xã hội, hai bên trong quan hệ pháp luật
lao động nói riêng và pháp luật nói chung vừa có sự mâu thuẫn, vừa có sự thống
nhất, phụ thuộc lẫn nhau, bên này có quyền tương ứng với nghĩa vụ của bên kia
và ngược lại, đó cũng là yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường.
Thông qua việc bảo vệ này mà quan hệ lao động có thể phát triển bền vững, người
lao động cũng có điều kiện ổn định việc là, đảm bảo cuộc sống.
Thứ
hai,
với tư cách là một chủ thể bình đẳng với những người lao động và với việc thực
thi nguyên tắc: “trước pháp luật, mọi người đều bình đẳng”, pháp luật lao động
cần thiết phải bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động.
Có như vậy, mới tạo ra tâm lý yên tâm của các nhà đầu tư (đặc biệt là các nhà đầu
tư nước ngoài) và niềm tin là Nhà nước Việt Nam không “làm ngơ” trước lợi ích của họ, vẫn luôn tạo điều kiện thuận lợi để
họ đầu tư và kinh doanh có hiệu quả.
Thứ
ba,
trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, theo thông lệ pháp luật trên
thế giới, đảm bảo thực hiện nguyên tắc này được coi là một yếu tố thu hút đầu
tư nước ngoài. Đó cũng là một trong những lý do mà các nhà lập pháp Việt Nam
tính đến khi đặt ra các quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
sử dụng lao động.
XEM THÊM: ĐĂNG KÍ HỘ KINH DOANH
Tuy
nhiên, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này trên thực tế
không hề dễ dàng. Một ví dụ như sau: để bảo vệ lợi ích hợp
pháp của người sử dụng lao động trước khi đình công xảy ra, Khoản 4 Điều 174b
Luật lao động quy định “ít nhất là 5
ngày, trước ngày bắt đầu đình công, Ban chấp hành Công đoàn cơ sở hoặc đại diện
tập thể lao động phải cử đại diện nhiều nhất là 3 người để trao quyết định đình
công và bản yêu cầu cho người sử dụng lao động…”. Với quy định này, người
sử dụng lao động sẽ được biết trước về kế hoạch đình công, cân nhắc về việc có
nên chấp nhận yêu sách của tập thể lao động hay để họ đình công? Người sử dụng
lao động sẽ căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để đưa ra quyết định về vấn đề này. Đây
là quy định có tính bắt buộc, được pháp luật đình công ở hầu hết các quốc gia
ghi nhận. Nhưng trong thực tế ở Việt Nam, do hiểu biết pháp luật còn hạn chế
hoặc ý thức chấp hành pháp luật kém của người lao động nên ít khi quy định này
được người lao động tuân thủ. Trong nhiều cuộc đình công, những người lao động
thường tự động ngừng việc, không thông báo trước cho chủ doanh nghiệp hoặc chỉ
thông báo bằng miệng trước một thời gian rất ngắn. Điều này không những làm cho
cuộc đình công trở thành bất hợp pháp, mà còn ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp
của các chủ doanh nghiệp bởi họ không chủ động đối phó được với đình công,
không chủ động khắc phục những hậu quả của đình công, dù họ có quyền được biết
và chuẩn bị trước về điều này[2].
KẾT
LUẬN
Trong quan hệ lao động, người sử dụng
lao động là một bên quan trọng tạo nên quan hệ ấy. Vì vậy, pháp luật lao động
quy định nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ là hoàn toàn phù hợp. Đặc biệt
trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay, thực
hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, cần sự đầu tư của các doanh nghiệp
trong và ngoài nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động. Về mặt nội dung, quyền và lợi ích của người sử dụng lao
động cũng được đảm bảo trên nhiều lĩnh vực nhưng nhất thiết phải trong khuôn khổ
pháp luật. Khuôn khổ đó đảm bảo cho người sử dụng lao động đạt được mục đích
chính đáng của mình ở mức tối đa nhưng không làm phương hại đến người lao động
và các chủ thể khác, đến đời sống xã hội và lợi ích chung. Đồng thời, hệ thống
pháp luật Việt Nam cần có những quy định cụ thể hơn, rõ ràng, hoàn thiện, nâng
cao ý thức của người lao động và sử dụng lao động, có như vậy, quan hệ lao động
sẽ phát triển bền vững hơn.
[1]
Đảng cộng sản Viêt Nam, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc làn thứ IX của Đảng, NXB. Chính trị Quốc gia, 2001.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét