Thứ Ba, 30 tháng 8, 2016

Nhận diện đối tượng quyền SHTT trong quá trình phát triển phần mềm 

Ở góc độ của doanh nghiệp phần mềm, điều quan trọng là các doanh nghiệp phải kịp thời nhận diện và thực hiện các thủ tục xác lập quyền đối với các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ phát sinh trong quá trình phát triển phần mềm (software development process). Trong thực tiễn có rất nhiều mô hình phát triển phần mềm (software development model), và quá trình phát triển phần mềm tương ứng của các mô hình này cũng rất khác nhau. Để minh họa cho việc nhận diện các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ trong quá trình phát triển phần mềm, trong phần sau chúng ta sẽ đề cập đến mô hình phát triển phần mềm kiểu thác nước (waterfall model)
Mô hình thiết kế phần mềm theo mô hình thác nước và nhận diện các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ phát sinh Hình 1 mô tả quá trình phát triển một phần mềm theo mô hình kiểu thác nước, bao gồm 6 bước cơ bản: đặc tả, thiết kế, hiện thực, kiểm thử, triển khai và bảo trì. Ứng với các bước Đặc tả Thiết kế Hiện thực Kiểm thử Triển khai Bảo trì Giải pháp thực hiện yêu cầu chức năng; Giao diện người dùng (GUI) Tài liệu đặc tả các yêu cầu chức năng Chương trình máy tính Hướng dẫn sử dụng  phát triển phần mềm này sẽ hình thành nên các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được pháp luật bảo hộ. Trên thực tế, các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ phát sinh chủ yếu ở 3 bước đầu tiên của quá trình phát triển phần mềm. Ở bước đặc tả phần mềm sẽ hình thành tài liệu đặc tả yêu cầu chức năng của phần mềm, thường được xác lập quyền dưới dạng bí mật kinh doanh (trade secret). Ở bước thiết kế, có thể sẽ hình thành các giải pháp kỹ thuật dùng để giải quyết các yêu cầu kỹ thuật của phần mềm được bảo hộ dưới dạng sáng chế (patent). Tại một số nước như Mỹ và Úc, các giải pháp phi kỹ thuật như phương pháp kinh doanh dựa trên Internet (internet-based business method) của phần mềm cũng được bảo hộ dưới dạng sáng chế 5 . Theo thống kê của USPTO, số lượng bằng độc quyền sáng chế liên quan đến phương pháp kinh doanh được cấp tại Mỹ tăng 15% mỗi năm. Đồng thời, tại Mỹ, giao diện đồ họa của phần mềm (GUIs) cũng được bảo hộ dưới dạng sáng chế thiết kế (design patent), tương đương với kiếu dáng công nghiệp (industrial design) theo Luật SHTT của Việt Nam. Chương trình máy tính (computer program) dưới dạng mã nguồn hay mã máy, sản phẩm của bước hiện thực được bảo hộ dưới dạng quyền tác giả (copyright) như đối với tác phẩm văn học. Ngoài ra, các tài liệu hỗ trợ như hướng dẫn sử dụng, hướng dẫn lập trình,... là đối tượng của quyền tác giả.
 Như vậy, các chủ doanh nghiệp, nhà phát phát triển phần mềm, người lập trình phải được trang bị các kiến thức căn bản về sở hữu trí tuệ để có thể kịp thời nhận diện và hỗ trợ việc xác lập kịp thời các quyền sở hữu trí tuệ phát sinh trong quá trình phát triển phần mềm, giúp giảm thiểu các rủi ro về thất thoát, tranh chấp và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét