LỜI MỞ ĐẦU
“Trong bối cảnh Hội nhập kinh tế thế giới, khi kinh tế
thế giới bị khủng hoảng thì Việt nam cũng bị ảnh hưởng. Theo thống kê mới nhất,
gần 100 ngàn doanh nghiệp bị phá sản, đóng cửa, kéo theo là gần 1 triệu người
lao động bị thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp chung của lực lượng lao động Việt
nam là 2,17% (tương đương 984000 người) và tỷ lệ thiếu việc làm là 2,98% (
tương đương 1,36 triệu người). Riêng đối với Việt nam, ngoài thất nghiệp chính
thức (gần 1 triệu, như đã nêu), còn rất nhiều người bị thất nghiệp trá hình do
không làm hết thời gian làm việc hoặc làm việc cầm chừng cho hết ngày, nhất là ở
khu vực nông thôn (không sử dụng hết thời
gian lao động). Cũng theo số liệu thống kê nêu trên, trong số những người thất
nghiệp, số người từ 15-24 tuổi chiếm tới 46,8%. Điều này lại cho thấy những quy
luật kinh tế (tăng trưởng kinh tế- thất nghiệp) của thế giới và Việt nam đều có
những nét tương đồng và càng khẳng định Việt Nam không thể đứng ngoài ảnh hưởng
của khủng hoảng chung của kinh tế thế giới”.( Thất nghiệp và vấn đề An
sinh xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu- PGS.TS. Mạc
Văn Tiến). Để hiểu về tình trạng thất nghiệp hiện nay nhất là đối với sinh viên
vấn đề việc làm( đầu ra) sao khi học là mối quan tâm hang đầu nên em chọn đề
tài “tình hình thất nghiệp của Việt Nam
hiện nay: thực trạng, nguyên nhân, giải pháp”.
I.
THẤT NGHIỆP
1.Khái
niệm, thước đo và tác động
Các khái niệm liên quan đến thất nghiệp.Để có cơ sở thống
kê về thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp, thì cần phải nghiên cứu, phân biệt một
số khái niệm dưới đây.
Người
trong độ tuổi lao động: Những người trong độ tuổi lao động là những người ở độ
tuổi có nghĩa vụ và quyền lợi lao động theo quy định được ghi trong hiến pháp của
mỗi nước. Ở Việt Nam được ghi trong hiến pháp năm 1992
Lực lượng lao động: Lực lượng lao động là số người
trong độ tuổi lao động đang có việc làm hoặc chưa có việc làm nhưng đang tìm kiếm
việc làm
Người có
việc làm: Người có việc làm là những người trong độ tuổi lao động đang làm việc
trong các doanh nghiệp, trong các tổ chức xã hội và thu nhập
Người thất nghiệp: Người thất nghiệp là người trong độ
tuổi lao động đang tìm kiếm việc làm những chưa tìm kiếm được
Người ngoài lực lượng lao động: Người ngoài lực lượng
lao động là những người trong độ tuổi lao động bao gồm người đi học, người nội
trợ, ốm đau không đủ sức khoẻ để lao động, người bị tước quyền lao động, những
người không muốn tìm kiếm việc làm với những lý do khác nhau
Người ngoài độ tuổi lao động: Là trẻ em chưa đến tuổi
lao động, người già đã nghỉ hưu. Hiến Pháp Việt Nam quy định trẻ em dưới 16 tuổi
không được tham gia lao động, người Nam lớn hơn 60 tuổi, nữ lớn hơn 55 tuổi là
hết tuổi lao động. Trừ một số nghề nghiệp và điều kiện nhất định tuổi nghỉ hưu
có thể được kéo dài.
Những
khái niệm trên có tính quy ước, thống kê, có khác đôi chút giữa các quốc gia.
Tỷ lệ thất nghiệp là (%) số người thất nghiệp so với tổng
số người trong lực lượng lao động.
Tỷ lệ thất nghiệp là một chỉ tiêu phản ánh khái quát
tình trạng thất nghiệp của mỗi một quốc gia. Cũng vì thế mà có những quan điểm
khác nhau về nội dung và phương pháp tính toán để tỷ lệ thất nghiệp có khả năng
biểu hiện đúng và đầy đủ các đặc điểm của tình trạng thất nghiệp thực tế.
II. Phân loại
thất nghiệp
Thất nghiệp tạm thời: Thất nghiệp tạm thời xảy ra khi có một số
người lao động đang trong thời gian tìm kiếm công việc, hoặc nơi làm việc tốt
hơn, phù hợp với nhu cầu, mong muốn của người lao động hoặc những người mới bước
vào thị trường lao động đang tìm kiếm việc làm hoặc chờ đợi đi làm,... mọi xã hội
trong bất kỳ thời điểm nào đều tồn tại loại thất nghiệp này.
Thất nghiệp cơ cấu: Thất nghiệp cơ cấu xẩy ra khi có sự mất
cân đối cung, cầu giữa các loại lao động giữa các ngành nghề, khu vực,... Loại
này gắn liền với cơ cấu kinh tế và khả năng điều chỉnh cung cầu của thị trường
lao động. Khi sự biến động này mạnh, kéo dài thì nạn thất nghiệp trở nên trầm
trọng và chuyển sang thất nghiệp dài hạn.
Thất nghiệp do thiếu cầu: loại thất nghiệp này xảy ra khi mức cầu
chung về lao động giảm xuống. Nguồn gốc chính là sự suy giảm tổng cầu. Loại này
còn được gọi là thất nghiệp chu kỳ vì các nền kinh tế thị trường luôn gắn với
tính chu kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của loại này là tình trạng
thất nghiệp xảy ra tràn lan ở khắp mọi nơi và mọi ngành nghề trong nền kinh tế.
Thất nghiệp do yếu tố ngoài
thị trường: Loại thất nghiệp
này còn được gọi là thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển. Nó xảy ra khi tiền công
tiền lương được ấn định không bởi các lực lượng thị trường và cao hơn mức cân bằng
thực tế của thị trường lao động. Vì tiền công không chỉ có quan hệ tới sự phân
phối thu nhập gắn với kết quả lao động và gắn với mức sống tối thiểu của dân
cư, nên Chính phủ của nhiều quốc gia có quy định cứng nhắc về mức tiền công tiền
lương tối thiểu. Sự không linh hoạt của tiền công tiền lương dẫn đến một bộ phận
lao động mất việc làm hoặc khó tìm kiếm được việc làm.
Thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu xảy ra
trong một bộ phân riêng biệt của thị trường lao động. Thất nghiệp thiếu cầu xảy
ra khi nền kinh tế đang đi xuống, toàn bộ thị trường lao động trong xã hội bị ảnh
hưởng mất cân bằng. Còn thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển đó các yếu tố chính
trị xã hội tác động.
Cách phân tích hiện đại về thất nghiệp đưa ra một khái
niệm mới là thất nghiệp tự nhiên. Dựa trên cơ sở xem xét sự cân bằng của thị
trường lao động và nhấn mạnh một phân loại thất nghiệp là thất nghiệp tự nguyện
và không tư nguyện.
Thất nghiệp tự nguyện: chỉ những người tự nguyện không
muốn làm việc do việc làm và mức lương tương ứng chư phù hợp với mong muốn của
mình. Giả thiết này là cơ sở để xây dựng hai đường cung lao động. Một là đường
cung lao động nói chung chỉ ra quy mô của lực lượng lao động xã hội tương ứng với
các mức lương của thị trường lao động. một đường cung chỉ ra bộ phân lao động
chấp nhận việc làm với các mức lương tương ứng của thị trường lao động. khoảng
cách giữa hai đường cung biểu thị con số thất nghiệp tự nguyện.(xem hình 7.1)
3. Quy
mô thất nghiệp
Quy mô của thất nghiệp còn gắn với khoảng thời gian thất
nghiệp trung bình. Thời gian thất nghiệp trung bình là độ dài thời gian thất
nghiệp của toàn bộ số người thất nghiệp trong cùng mộtthời kỳ.
Trong đó: t : Là thời gian thất nghiệp trung bình N: Số
người thất nghiệp trong mỗi loại t: Thời gian thất nghiệp của mỗi loại
Khi dòng vào cân bằng với dòng ra, thì tỷ lệ thất nghiệp
không đổi, nhưng nếu khoảng thời gian thất nghiệp trung bình t ngắn lại thì cường
độ, quy mô của dòng thất nghiệp sẽ tăng. Khi đó thị trường lao động sẽ có biến
động mạnh, việc tìm kiếm sắp xếp việc làm trở nền khó khăn và phức tạp hơn. Nếu
hoạt động của thị trường lao động yếu kém thì thất nghiệp sẽ tăng và tỷ lệ thất
nghiệp cũng sẽ tăng.
Khi dòng vào lớn hơn ròng ra, thì số người thất nghiệp
và thời gian thất nghiệp cũng sẽ tăng, xã hội sẽ có đội quân thất nghiệp sẽ
đông đảo với thời gian thất nghiệp cũng sẽ dài hơn. Thất nghiệp cao và dài hạn
xẩy ra trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng. Tuy nhiên thất nghiệp dài hạn cũng có
thể xẩy ra ngay cả khi xã hội có nhiều công ăn việc làm. Trong trường hợp đó lý
do chủ yếu thường nằm trong việc thiếu hoàn hảo của việc tổ chức thị trường lao
động (đào tạo, môi giới, chính sách tuyển dụng, tuyển chọn, tiền lương,...)
4. Hạ thấp
tỷ lệ thất nghiệp
Đối với loại thất nghiệp tự nguyện: Cấu tạo ra nhiều
công ăn việc làm và có mức tiền lương tốt hơn để tại mỗi mức lương thu hút được
nhiều lao động hơn ; Tăng cường hoàn thiện các chương trình dạy nghề, đào tạo lại,
tổ chức tốt thị trường lao động.
Đối với loại thất
nghiệp chu kỳ: Cần áp dụng chính sách tài khoá, tiền tệ để làm gia tăng tổng cầu
nhằm kích thích các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, theo đó thu hút được
nhiều lao động.
Để xảy ra một
tình trạng thất nghiệp tràn lan sẽ ảnh hưởng rất nặng nề đến phát triển kinh tế
xã hội. Nền kinh tế sẽ phải từ bỏ những sản phẩm, dịch vụ mà những người công
nhân bị thất nghiệp làm ra. Hơn nữa, đó còn là sự lãng phí to lớn nguồn nhân lực
đang ở độ tuổi lao động và để tồn tại một lượng lớn người mất việc làm, để họ
rơi vào tình cảnh nghèo khó sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Do
đó, cần phải có những chính sách, kế hoạch bài bản hơn để ngăn ngừa nguy cơ nạn
thất nghiệp tiếp tục lan rộng
II.TÌNH HÌNH THẤT NGHIỆP CỦA VIỆT NAM HIỆN
NAY
1.. Thực
trạng thất nghiệp của Việt Nam hiện nay
Kinh tế suy giảm đã dẫn đến tình trạng thấp nghiệp gia
tăng. Từ đầu 2012 đến nay, số lao động thất nghiệp tăng vọt so với các năm trước
đây. Năm 2010, cả nước có gần 190.000 người đăng ký thất nghiệp. Năm 2011, số
người đăng ký thất nghiệp đã tăng lên hơn 330.000 người. Và chỉ trong quý 1 năm
nay, có đến 116.000 người đăng ký thất nghiệp, tăng hơn 70% so cùng kỳ năm
ngoái.
Theo số liệu Tổng cục thống kê vừa công
bố hôm nay (24/12), năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là
1,99%, giảm so với mức 2,27% năm 2011. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp của lao động
trong độ tuổi tại khu vực thành thị là 3,25%, khu vực nông thôn là 1,42% (Năm
2011 các tỷ lệ tương ứng là: 2,22%; 3,60%; 1,60%).
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong
độ tuổi năm 2012 là 2,8%, trong đó khu vực thành thị là 1,58%, khu vực nông
thôn là 3,35% (Năm 2011 các tỷ lệ tương ứng là: 2,96%; 1,58%; 3,56%). Tổng cục
Thống kê cho hay, mặc dù tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm năm 2012 giảm
nhẹ so với các tỷ lệ tương ứng của năm 2011 nhưng tỷ lệ lao động phi chính thức
năm 2012 tăng so với một số năm trước, từ 34,6% năm 2010 tăng lên 35,8% năm
2011 và 36,6% năm 2012.
Như vậy, có gần 1 triệu người thất nghiệp
bởi nền kinh tế không tạo đủ việc làm cho cả lao động mới gia nhập thị trường
và bộ phận lao động thất nghiệp cũ.
Tính đến
thời điểm 1/10/2012, cả nước có 53,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực
lượng lao động. Trong đó, có 52,1 triệu người có việc làm, gần 70% lực lượng
lao động thuộc khu vực nông thôn.
Tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị cao hơn khu vực nông thôn (3,3% so với 1,4% trong 3 quý đầu
năm 2012).
Trên cả nước, TP. Hồ Chí Minh vẫn dẫn
đầu về tỷ lệ thất nghiệp với mức 3,9%, tiếp theo đến Đồng bằng Sông Cửu Long
(không tính TP.HCM) và Hà Nội. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực miền núi
và trung du phía Bắc ở mức thấp nhất, gần 0,8%.
Trong khi đó, lao động của khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và khu vực Nhà nước có xu hướng giảm dần qua các
quý của năm 2012 (giảm 3% từ quý I đến quý III). Ngược lại, khu vực ngoài Nhà
nước, bao gồm những người tự tạo việc làm, hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp
tư nhân và hợp tác xã lại tăng lên.
Ngoài ra,
theo kết quả điều tra, bất bình đẳng giới vẫn tồn tại trong vấn đề lao động việc
làm. Có tới 2,5% phụ nữ không có việc làm trong khi tỷ lệ này ở nam giới là
1,7%.Tìm việc đồng thời cũng là một vấn đề lớn đối với thanh niên độ tuổi từ 15
đến 24 bởi nhóm này chiếm tới 47% tổng số người thất nghiệp.
Báo cáo chỉ ra thực tế, tuy tỷ lệ thất nghiệp
ở Việt Nam không cao trong tình hình kinh tế khó khăn nhưng nhiều người lao động
hầu như không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận những công việc
trong nền kinh tế phi chính thức với mức thu nhập thấp và bất ổn định vì cuộc sống
của bản thân và gia đình.
Theo Giám đốc ILO Việt Nam Gyorgy
Sziraczki, cần thêm nhiều nguồn lực để giải quyết vấn đề nền kinh tế phi chính
thức - một bộ phận gắn liền với năng suất thấp, thiếu sự bảo trợ xã hội và thu
nhập nghèo nàn. “Sản xuất số liệu lao động kịp thời với chất lượng cao giữ vai
trò đặc biệt quan trọng giúp hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng nhằm
phát triển kinh tế bền vững.” .Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Đỗ Thức cho biết,
kể từ năm 2013, cơ quan này sẽ thực hiện và công bố Báo cáo Điều tra Lao động
theo từng quý với sự giúp đỡ của ILO. Các phiếu điều tra và báo cáo sẽ được thực
hiện theo các phương pháp và cách tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế.
2..
Nguyên nhân của thất nghiệp ở Việt Nam
- Thất nghiệp
gia tăng do suy giảm kinh tế toàn cầu: Nguyên nhân khiến người lao động bị
mất việc chủ yếu do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Nhiều doanh nghiệp
phải thu hẹp sản xuất, có doanh nghiệp phải đóng cửa hoàn toàn do sản phẩm làm
ra không tiêu thụ được, nhất là những doanh nghiệp xuất khẩu. Chính vì vậy, họ
phải “dãn thở” dẫn đến lao động mất việc làm. Đây là nguyên nhân chủ yếu. Trong
năm 2008. mức lạm phát ở Việt Nam đã lên tới gần 23%, tuy thấp hơn một ít so với
mức mà người ta chờ đợi, nhưng rõ ràng năm 2008 đã là năm mà vật giá leo thang
rất nhiều.
Bên cạnh
lý do lạm phát, Việt Nam còn bị ảnh hưởng bởi tình trạng suy giảm tăng trưởng
toàn cầu, nhất là vì kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc rất nhiều vào đầu tư ngoại
quốc và xuất khẩu ( đặc biệt là sang Hoa Kỳ và châu Âu). Danh sách các doanh
nghiệp phải giải thể, ngưng hoạt động, thu hẹp sản xuất ngày càng nhiều. Hậu quả
là nạn thất nghiệp sẽ tăng cao.
- Nếp nghĩ có từ
lâu trong thanh niên là thói quen đề cao việc học để “làm thầy” mặc dù nếu
bản thân học “làm thợ” sẽ tốt hơn hay “thích làm Nhà nước, không thích làm cho
tư nhân”; như vậy là thiếu thực tế bởi không dựa trên khả năng của bản thân và
nhu cầu xã hội. Một bộ phận lao động trẻ có biểu hiện ngộ nhận khả năng bản
thân; một bộ phận lại tự ti, không đánh giá hết năng lực thực sự của mình. Chọn
nghề theo “nếp nghĩ” sẽ dễ mắc những sai lầm. Rất nhiều lao động trẻ “nhảy việc”
để tìm kiếm thu nhập cao nên dẫn đến tình trạng dễ bị mất việc.
- Lao động Việt Nam có trình
độ tay nghề thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu mới, tính chuyên nghiệp chưa cao. Việc kĩ năng không đáp ứng yêu cầu và sự
thiếu phối hợp giữa hệ thống đào tạo và giáo dục, các nhu cầu thị trường lao động
và quan niệm lạc hậu về vai trò và trách nhiệm giới. Tỷ lệ lao động được đào tạo
nghề rất thấp, chỉ khoảng 26%. Lao động của chúng ta đúng là dôi dao thật nhưng
vẫn không tìm được việc làm, hoặc có việc làm nhưng không ổn định một phần do
trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu. Do đó, lao động vẫn trong tình trạng bán
chuyên nghiệp, công việc chắp vá, không ổn định. Theo thống kê, cả nước hiện có
1915 cơ sở dạy nghề (CSDN) trong đó có 1218 CSDN công lập (chiếm 64%), bao gồm:
262 trường dạy nghề, 251 trường ĐH, CĐ, TCCN và 803 cơ sở khác có dạy nghề.
Trong đó đáng chú ý là khoảng 355 CSDN thuộc các doanh nghiệp. Trong những năm
qua, bình quân mỗi năm các trường nghề thuộc doanh nghiệp đào tạo khoảng 90.000
đến 100.000 học sinh nghề dài hạn và hàng trăm ngàn học sinh hệ ngắn hạn. Tuy
nhiên, thực tế hiệu quả của công tác dạy nghề vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Bằng
chứng là, hầu hết các doanh nghiệp FDI khi đầu tư vòa Việt Nam đều gặp khó khăn
trong việc tuyển dụng lao động, nhất là lao động có tay nghề. Hay nhe các doanh
nghiệp xuất khẩu lao động luôn phải “loay hoay” với các đơn hàng tuyển dụng lao
động có tay nghề.
3.
Phương hướng và giải pháp khắc phục
“Để đảm bảo chính sách an
sinh xã hội, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 853/QĐ-TTg ngày 3/6/2011 hỗ
trợ học phí với lãi suất ưu đãi 0,65%/tháng cho học sinh, sinh viên nghèo tiếp
tục được triển khai tại các địa phương nhằm góp phần giảm bớt khó khăn cho nhiều
hộ gia đình. Đối với người làm công ăn lương, mức lương tối thiểu tăng từ 830
nghìn đồng/tháng lên 1,05 triệu đồng/tháng từ 1/5/2012 áp dụng cho cán bộ, công
chức, viên chức, các đối tượng thuộc lực lượng vũ trang và người lao động làm
việc ở các cơ quan, đơn vị, tổ chức của Nhà nước cũng phần nào cải thiện đời sống
cho người lao động”.
Bên cạnh biện pháp phát triển kinh tế, việc hỗ
trợ tạo và tự tạo việc làm cho người lao động thông qua dự án vay vốn
từ Quỹ Quốc gia về việc làm được đẩy mạnh. Với tổng nguồn Quỹ đến
thời điểm hiện nay khoảng 5.743 tỷ đồng (trong đó, nguồn do Trung ương
quản lý là 4.286 tỷ đồng, nguồn địa phương thành lập là 1.457 tỷ đồng), hàng
năm cho vay trên 100 ngàn dự án, với doanh số cho vay khoảng 2000 tỷ
đồng/năm, góp phần giải quyết việc làm cho hàng trăm nghìn lao động
mỗi năm. Năm 2012, thông qua Quỹ Quốc gia về việc làm đã tạo việc làm
cho khoảng 160.000 lao động, trong đó tạo điều kiện cho các nhóm đối
tượng yếu thế như lao động là người tàn tật, lao động là người dân tộc, lao
động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp có cơ hội vay vốn
phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho bản thân và cộng
đồng.
Song song với đẩy mạnh tạo việc làm trong nước, Việt
Nam cũng tích cực đưa lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng. Năm 2012, hoạt động xuất khẩu lao động gặp khó khăn bởi khủng hoảng
kinh tế đã khiến nhiều doanh nghiệp ngoài nước phá sản, tạm ngưng hoạt động
nên không nhận thêm lao động. Lao động Việt Nam cũng đang phải đối mặt với sự
cạnh tranh về chất lượng lao động của các quốc gia khác trên cùng một thị trường.
Những thị trường trọng điểm hiện nay của ngành xuất khẩu lao động nước ta vẫn
là Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản,... cũng đang gặp những khó khăn.
Ngoài ra, nhằm hỗ trợ bù đắp một phần thu nhập
trong thời gian ngươi lao động bị thất nghiệp và giúp họ sớm quay trở
lại thị trường lao động, ngày 1/1/2009, chính sách bảo hiểm thất nghiệp
bắt đầu có hiệu lực, sau gần 4 năm triển khai thực hiện, chính sách bảo hiểm
thất nghiệp đã đi vào cuộc sống được người lao động và xã hội đón nhận.
Đến nay, cả nước có khoảng 8,1 triệu người tham gia bảo hiểm thất
nghiệp. Trong năm 2012, đã có 432.356 người thất nghiệp có quyết định
hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng, trong đó, có 342.145 người
được tư vấn giới thiệu việc làm, 70.656 người được giới thiệu việc
làm, 4.776 người được hỗ trợ học nghề để duy trì hoặc chyển đổi
việc làm.
Theo số liệu báo cáo của các tỉnh, thành phố,
năm 2012, cả nước giải quyết việc làm cho khoảng 1,54 triệu lượt lao
động (đạt khoảng 96,7% kế hoạch năm), trong đó, có khoảng 80 nghìn lao
động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Tuy không đạt kế hoạch đề
ra nhưng đây cũng là một trong những thành công trong công tác giải quyết việc
làm trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua.
Để thực hiện tốt công tác giải quyết việc
làm, cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân, hướng tới mục tiêu việc
làm bền vững cho người lao động, phương hướng giải quyết việc làm cho
người lao động trong thời gian tới cần tập trung vào các nội dung:
Đầu tiên ta cần nhìn vào kinh tế vĩ mô để : Hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp theo lý thuyết. Tiếp
theo là những biện pháp sau
Một là, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh cải
cách kinh tế, tái cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp và
thương mại để tận dụng lợi thế cạnh tranh của đất nước giải quyết việc làm cho
người lao động ngay trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển các
ngành công nghiệp hỗ trợ đối với các ngành cơ khí chế tạo, điện tử - tin học,
linh kiện ô tô và công nghệ cao đồng thời nâng cao chất lượng các ngành công
nghiệp thu hút nhiều lao động thông qua việc cung cấp công nghệ, các gói dịch vụ
mở rộng và các chương trình đào tạo kỹ năng phù hợp; định hướng chính sách công
nghiệp theo mục tiêu tăng trưởng và việc làm.
Hai là, thực hiện các chính sách ổn định việc làm
để bảo đảm việc làm, việc làm bền vững cho người lao động. Khuyến khích, tạo điều
kiện thuận lợi hỗ trợ các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong
và ngoài nước tạo thêm việc làm có năng suất, chất lượng và hiệu quả.
Ba là, phát triển hài hoà, bền vững các vùng,
thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, đẩy mạnh thu hút và giải quyết
việc làm cho lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Cải thiện điều kiện
làm việc trong khu vực phi chính thức tại địa phương; cung cấp các hỗ trợ tài
chính, đào tạo và thông tin thị trường lao động nhằm hỗ trợ quá trình chuyển tiếp
từ việc làm phi chính thức sang việc làm chính thức, tăng cường bảo vệ người
lao động làm việc trong khu vực phi chính thức. Phát triển cơ sở hạ tầng, đặc
biệt tại khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, đồng thời đẩy mạnh cung cấp các
dịch vụ phát triển kinh doanh và hỗ trợ nâng cấp công nghệ, góp phần phát triển
nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh tạo việc làm cho các lao động phổ thông trình
độ thấp.
Bốn là, đẩy mạnh việc thực hiện các chính sách và
giải pháp hỗ trợ xuất khẩu lao động, tăng cường quản lý, bảo vệ quyền lợi người
lao động làm việc ở nước ngoài. Nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu
về ngoại ngữ, tay nghề, ý thức chấp hành pháp luật, tuân thủ các điều
khoản đã cam kết trong hợp đồng; nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở đào tạo
nghề, ngoại ngữ cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài…
Năm là, nâng cao năng lực hệ thống Trung tâm dịch vụ
việc làm, hình thành hệ thống dịch vụ việc làm công, tập trung vào các hoạt động
thông tin thị trường lao động và tư vấn, giới thiệu việc làm. Cải thiện khả
năng tiếp cận thông tin thị trường lao động, đặc biệt tập trung hướng nghiệp,
tư vấn, giới thiệu việc làm cho thanh niên, sinh viên các trường đại học, cao đẳng,
cho các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương,… Tăng cường phối hợp với các cơ quan
liên quan trong việc thu thập các thông tin thị trường lao động, ở rộng hợp
tác, kết nối trong phạm vi hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm công với các đối
tác bao gồm cả địa phương, trong nước và quốc tế trong việc triển khai các
chương trình và cung cấp các dịch vụ.
KẾT LUẬN
Thất nghiệp, đó là vấn đề
cả thế giới cần quan tâm. Bất kỳ một quốc gia nào dù nền kinh tế có phát triển
đến đâu đi chăng nữa thì vẫn tồn tại thất nghiệp đó là vấn đề không tránh khỏi
chỉ có điều là thất nghiệp đó ở mức độ thấp hay cao mà thôi. Kinh
tế Việt Nam vừa trải qua một năm đầy khó khăn. Trong xu thế kém phát triển của
nền kinh tế, hàng loạt các công ty, doanh nghiệp đã tự gạch tên mình ra khỏi cuộc
chơi, điều này đồng nghĩa với việc tỷ lệ người thất nghiệp tại Việt Nam cũng
tăng lên một cách nhanh chóng.Chính vì vậy chính phủ và các doanh nghiệp cần có
biện pháp bảo đảm việc làm cho người dân lao động.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trường Đại
Học luật Hà Nội, giáo trình “Kinh tế học đại cương”. Nhà xuất bản công an nhân
dân, Hà Nội 2002, tr.269-276.
2.Nguyễn Đại
Đồng-Cục trưởng Cục Việc làm: “Kết quả giải quyết việc làm năm 2012 và
phương hướng giải quyết việc làm cho người lao động trong thời gian tới.”
3.Nguyễn Tiệp,
Lê Xuân Cử “Một số vấn đề nâng cao chất
lượng lao động cách mạng kĩ thuật trình độ cao đáp ứng nhu cầu CNH- HĐH.” Số
11(414) 11-2012 TẠP CHÍ NGIÊN CỨ KINH TẾ.
4.DỮ LIỆU,
DỮ LIỆU KINH TẾ, NGÂN HÀNG, NGÀNH, TÀI CHÍNH-CHỨNG KHOÁN Thất nghiệp ở
Việt Nam: “Trong vùng ảnh hưởng của bão”
5.Thất nghiệp:
Nỗi ám ảnh toàn cầu 2013 - Vũ Điệp
Các
website:
http://kientrucsaigon.net/KINH-TE/GT-KINH-TE-VI-MO/C7/CHUONG-VII-THAT-NGHIEP-VA-LAM-PHAT.html
http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A5t_nghi%E1%BB%87p
http://www.baomoi.com/Ty-le-that-nghiep-2012-chi-o-muc-199-do-lao-dong-thoi-vu-tang/47/10042182.epi
http://dantri.com.vn/kinh-doanh/1-trieu-nguoi-viet-nam-dang-that-nghiep-675426.htm
http://www.nguoiduatin.vn/kinh-te-kho-khan-that-nghiep-tang-chong-mat-a31065.html
PHỤ LỤC
Tỷ lệ thất
nghiệp tại Việt Nam giai đoạn 2006 - 2011. Nguồn: GSO
Một
số hình ảnh về nỗi lo thất ngiệp của người dân Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét