Công
ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhằm tạo ra một nguồn luật thống nhất áp dụng
cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Công ước này đã trở thành nguồn được áp dụng rộng rãi nhất trong số các
điều ước quốc tế đa phương về mua bán hàng hoá quốc tế. Việc tham gia và sử dụng
CISG trong giao dịch thương mại quốc tế đã trở thành xu thế toàn cầu mà các quốc
gia mong muốn đạt được. Không thể phủ nhận những lợi ích mà CISG mang lại cho
Việt Nam (bao gồm cả về những lợi ích về mặt pháp lý và kinh tế) khi gia nhập
công ước này. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng phải kể đến những hạn chế, bất lợi mà
công ước này đem lại cho Việt Nam khi đã tham gia công ước.
I.
Những
hạn chế của CISG
Mặc dù việc gia nhập CISG hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích lớn,
nhưng khi
nghiên cứu thực tiễn áp dụng CISG tại các quốc gia thành
viên cho thấy quy định của CISG còn tồn tại một số hạn chế, nếu gia nhập Việt
Nam sẽ gặp phải một số bất lợi.Cụ thể:
Thứ nhất,
Các quy định của CISG không bao trùm mọi vấn đề pháp lý có liên quan đến
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Dù
rất hữu ích
nhưng với phạm vi hiện tại của mình, CISG không giải quyết tất cả các vấn đề
pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, như vấn đề trách nhiệm
của các bên trong giai đoạn đàm phán, điều kiện hiệu lực của hợp đồng, vấn đề
ủy quyền, vấn đề thời hiệu, vấn đề chuyển quyền sở hữu của hàng hóa CISG không
điều chỉnh. Những vấn đề cơ bản của hợp đồng lại
không được điều chỉnh thì các tranh chấp liên quan tới hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế có thể dễ dàng xảy ra ngay cả khi áp dụng công ước Viên. Vì vậy, trong nhiều trường hợp để
những hợp đồng như thế này được ký kết và triển khai thuận lợi và an toàn về
pháp lý,
các bên ký kết hợp đồng vẫn đồng thời phải sử dụng đến các nguồn luật khác và
thường là luật quốc gia.
Thứ hai, CISG chưa có các quy phạm điều chỉnh các vấn đề
pháp lý mới phát sinh trong thương mại quốc tế[N1]
Được soạn thảo và thông qua từ cách
đây 30 năm, CISG chưa dự đoán và do đó chưa đưa vào các quy định của mình những
vấn đề pháp lý mới phát sinh sau này, ví dụ các quy phạm pháp lý liên quan đến
thương mại điện tử. Việc sửa đổi Công ước để bổ sung các nội dung pháp lý này
có lẽ còn cần một thời gian dài nữa (Công ước Viên 1980 không có cơ chế sửa
đổi, điều chỉnh thường xuyên để phù hợp với sự thay đổi cán cân lợi ích của các
thành viên và do đó mỗi thay đổi trong Công ước sẽ phải được sự đồng ý, phê
chuẩn của tất cả các thành viên). Vì vậy các doanh nghiệp phải bằng lòng với
nội dung hiện tại của CISG và vẫn cần những hệ thống pháp luật khác để xử lý
các vấn đề mới dù đã chọn CISG cho hợp đồng của mình. Khác
với WTO, Công ước Viên không có cơ chế sửa đổi, điều chỉnh thường xuyên để phù
hợp với sự thay đổi cán cân lợi ích của các thành viên (mỗi thay đổi trong Công
ước sẽ phải được sự đồng ý, phê chuẩn của tất cả các thành viên)
Thứ ba, Công ước Viên 1980 là
kết quả của sự thỏa hiệp giữa quá nhiều bên, các điều khoản của CISG thường không cụ thể, vì vậy
được áp dụng không thống nhất tại các nước khác nhau, thậm chí các tòa án khác
nhau. Công ước đề cao tính quốc tế, tránh áp dụng các cách hiểu, hay sử dụng luật
nội địa của các nước sẽ làm giảm ảnh hưởng của luật pháp Việt Nam đối với việc
bảo vệ lợi ích của bên Việt Nam trong giao dịch thương mại quốc tế. Khác với
WTO, Công ước Viên không có cơ chế sửa đổi, điều chỉnh thường xuyên để phù hợp
với sự thay đổi cán cân lợi ích của các thành viên (mỗi thay đổi trong Công ước
sẽ phải được sự đồng ý, phê chuẩn của tất cả các thành viên
II.
Những bất lợi khi Việt Nam ra nhập CISG
1. Bất
lợi về kinh tế
Những lợi ích kinh tế mà khi Việt Nam gia nhập CISG là
rất lớn, nhưng không phải là không có những hạn chế, tuy nhiên những bất lợi về
mặt kinh tế do CISG mang lại không đáng kể bởi các
quốc gia thành viên không có nghĩa vụ đóng góp về tài chính, không phải thành lập
một cơ quan riêng để thực thi Công ước,…Nhìn chung, các nguyên tắc của Công ước
cũng phù hợp với các nguyên tắc chung của pháp luật hợp đồng Việt Nam, Việt Nam
không phải sửa đổi pháp luật hiện hành và không phát sinh chi phí cho việc sửa
đổi luật.
Tuy
nhiên, trong giao dịch buôn bán quốc tế, mỗi ngành mỗi lĩnh vực đều có những điều
khoản hợp đồng chuẩn đặc thù ví dụ mua bán dầu,
gạo, hoa quả tươi, cà phê… và các doanh nghiệp không muốn từ bỏ những điều khoản
đã được sử dụng rộng rãi và quen thuộc này. [N2] Do
đó, cho dù Việt Nam có gia nhập CISG thì Công ước này cũng không thể điều chỉnh
tất cả các hợp đồng mua bán quốc tế trong đó có Việt Nam tham gia. Hơn nữa việc
áp dụng CISG cũng còn hạn chế trong quan hệ buôn bán giữa các doanh nghiệp Việt Nam và
các doanh nghiệp của các nước chưa tham gia công ước.[N3]
2.
Khó khăn về pháp lý
Khi tham gia Công ước Viên, Việt
Nam có thể gặp một số trở ngại về pháp lý[1]
sau:
Thứ nhất, nội dung Công ước Viên còn khá mới mẻ đối với hệ thống
xây dựng pháp luật, tư pháp và trọng tài ở Việt Nam, [N4] vì vậy các bên
Việt Nam (doanh nghiệp, tòa án, trọng tài) cần có nhiều thời gian hơn để nghiên
cứu, hiểu rõ khi áp dụng CISG trong các quan hệ giao dịch thương mại quốc tế.
Hiện nay tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu chuyên sâu về nội dung CISG cũng như
thực tiễn áp dụng CISG trên thế giới để áp dụng tại Việt Nam. Điều này khiến việc
diễn giải, áp dụng CISG trong thực tế của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, trong hệ thống giáo dục pháp luật
của Việt Nam nói chung (ngoại trừ một số rất ít trường đại học chuyên ngành luật,
hợp tác với nước ngoài) cũng chưa có nội dung nào giới thiệu, đào tạo chuyên sâu về
CISG. [N5] Các doanh nghiệp,
nhà thực hành luật Việt Nam cũng chưa có diễn đàn nào riêng để học hỏi, trao đổi
kinh nghiệm về CISG như tại nhiều nước khác trên thế giới. Điều này cũng sẽ làm
giảm sức mạnh, tiếng nói của các doanh nghiệp Việt Nam, và khả năng xét xử tòa
án, trọng tài tại Việt Nam khi có tranh chấp liên quan đến CISG.
Ngoài ra, về
văn hóa thương mại và ngôn ngữ khác nhau giữa các quốc gia, thì hiện nay Công ước 1980 hiện được lưu hành theo 6 thứ tiếng
(không phải tiếng Việt), và điều này có thể gây khó khăn khi áp dụng bởi việc bất đồng ngôn ngữ có thể sẽ dẫn
đến cách hiểu khác nhau khi áp dụng Công ước
III.
Xu
hướng quốc tế
Sau 30 năm ra đời, CISG
vẫn chưa được Vương quốc Anh phê chuẩn. Tuy nhiều quốc gia đã trở thành thành
viên của Công ước (trong đó có Hoa Kỳ, Canada, Trung Quốc) nhưng cường quốc này
vẫn đứng ngoài cuộc và không hề có động thái chính thức nào về việc tham gia.
Có thể giải thích cho điều này là vì Luật mua bán hàng hóa năm 1979 của Anh là
một văn bản có sức ảnh hưởng rất lớn trong mua bán hàng hóa quốc tế, và là niềm
tự hào của các luật gia Anh. Việc tham gia CISG có thể làm giảm sức ảnh hưởng
này.
-
Nam phi: Ở quốc gia này vẫn còn nhiều luồng quan điểm về việc
gia nhập hay không gia nhập CISG và cho đến nay, với những tranh cãi này ở Nam Phi vẫn chưa đi
tới hồi kết và vì vậy nước này vẫn đứng ngoài CISG
- Các
nước Asean[N6] :
các quốc gia ở khu vực này thì tham gia CISG còn hạn chế hoặc gia nhập nhưng lại
vẫn thực hiện việc bảo lưu theo quy định tại Điều 1.1(b) của Công ước, cụ thể ở
đây là Singapore. Mục đích của sự bảo lưu này là làm giảm sự lo
ngại của các đối tác chưa biết đến CISG và vẫn có thói quen chấp nhận luật
Singapore để điều chỉnh hợp đồng.
- Hoa
kỳ: Là cường quốc lớn nhất thế giới về kinh tế và cũng là một trong những nước đầu
tiên tham gia Công ước Viên nhưng Công ước ở quốc gia này lại không được sử dụng
rộng rãi, trong nhiều trường hợp các tòa án Hoa Kỳ viện dẫn Điều 6 của CISG để
từ chối áp dụng Công ước. Tương tự,
hầu hết các luật sư và nhà tư vấn pháp lý tại Hoa Kỳ đều khuyến khích khách
hàng quy định điều khoản không áp dụng CISG trong thỏa thuận thương mại của
mình
Trên
đây là một số dẫn chứng điển hình về việc tại sao một số quốc gia, vùng lãnh thổ
vẫn chưa gia nhập công ước Viên dù đó là nước có tiềm lực kinh tế và có thể dễ
dàng ra nhập công ước; hay có nước dù đã là thành viên công ước nhưng việc sử dụng
công ước chưa thực sự hiệu quả. Do đó, Việt Nam cần phải đánh giá, cân nhắc thật
kĩ việc có nên ra nhập công ước Viên hay không.
[1] Nghiên cứu của VCCI về việc VN tham gia Công Ước Viên 1980″
[2] Nhóm
cộng tác viên VCCI, 11/4/2010, Việt Nam
tham gia công ước Viên 1980 về mua bán hàng háo quốc tế. Lợi ích và hạn chế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét