PHẦN MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong một thời kì mà ở bất cứ nơi
đâu trên đất nước Việt Nam này cũng có thể tiến hành giao dịch thương mại ( Hình 1a,1b ). Cứ ngủ dậy gửi một
tin nhắn hay rửa mặt dưới nước máy là bạn đã tham gia một giao dịch thương mại.
Từ cái tăm, đến gói muối nơi nào cũng có người bán, kẻ mua, cứ có cầu thì nguồn
cung sẽ xuất hiện. Chỉ cần có tiền là hàng sẽ được giao tới tận nơi nhanh nhất
có thể. Sản phẩm làm ra có thể dùng hoặc đem bán ở bất cứ nơi đâu được giá cao
mà không bị bó buộc bởi bất kỳ một luật lệ nào hết. Cao hơn một chút ta thấy
trên đất nước xuất hiện nhiều hơn các tập đoàn, công ty nước ngoài. Đấy là còn
chưa kể tới các công ty tư nhân chiếm đa số, phân bố ở khắp nơi. Và chúng ta
gọi nó một cách nôm na là cơ chế thị trường mở cửa, thông thoáng. Nhưng trong
trí nhớ cuả những người đã trải qua thời kì ấy, chắc không khi nào quên khái
niệm cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nói cách khác là cơ chế quan liêu bao cấp.
Hình ảnh về nó ấn tượng đến nỗi chúng ta
có thể dễ dàng tìm thấy chỉ bằng vài thao tác đơn giản trên Internet.
Nghĩ đến quan liêu bao cấp có nhiều người nhìn nó bằng
ánh mắt không mấy thiện cảm, có khi còn chê bai, chỉ trích… Nhưng thiết nghĩ sự
vật hiện tượng nào cũng nên được nhìn một cách toàn diện trước khi bị đưa ra
phán xét, như thế mới đánh giá đúng về nó. Và phải chăng là thật sự cần thiết
với việc áp dụng quan điểm toàn diện vào giải quyết vấn đề đang được bàn tới ở
đây: cơ chế kế hoạch hóa tập trung – mặt lợi hay cái hại?
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC-LÊNIN
Phép biện chứng
duy vật là môn khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự vận động và
phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống gồm 2
nguyên lý (nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển), 6 cặp
phạm trù cơ bản (cái riêng – cái chung, nguyên nhân – kết quả, tất nhiên – ngẫu
nhiên, nội dung – hình thức, bản chất – hiện tượng, khả năng – hiện thực) và 3
quy luật phổ biến (quy luật lượng – chất, quy luật phủ định của phủ định, quy
luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập). Từ 2 nguyên lý cơ bản trên,
ta xây dựng được 3 quan điểm: Quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển và quan
điểm lịch sử - cụ thể. Trong đó, quan điểm toàn diện đóng một vai trò quan trọng
bởi bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với
các sự vật khác và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú. Do đó, quan điểm toàn diện
có ý nghĩa hết sức thiết thực trong cuộc sống.
I. Lý luận
chung về quan điểm toàn diện
1.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Chủ nghĩa duy vật
biện chứng cho rằng thế giới tồn tại như một thể thống nhất. Các sự vật hiện tượng
và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tồn tại tách biệt với nhau, vừa có sự
liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau. Cơ sở của sự liên hệ đó
chính là tính thống nhất của thế giới vật chất.
Mối liên hệ của
các sự vật, hiện tượng là khách quan, là vốn có của sự vật, hiện tượng. Đồng thời
mối liên hệ còn mang tính phổ biến bởi bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng đều nằm
trong các mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác.
Quan điểm duy vật
biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của sự liên hệ
giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình mà nó còn nêu rõ tính đa dạng của sự
liên hệ qua lại: có mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, có mối liên
hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực của
thế giới,có mối liên hệ trực tiếp, mối liên hệ gián tiếp mà trong đó sự tác động
qua lại được thể hiện thông qua một hay một vài khâu trung gian, có mối liên hệ
bản chất, mối liên hệ tất nhiên và liên hệ ngẫu nhiên, có mối liên hệ giữa các
sự vật khác nhau và mối liên hệ giữa các mặt khác nhau của sự vât. Trong các mối
quan hệ đó, nói chung, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ tất nhiên, mối liên hệ
chủ yếu… giữ vai trò quyết định, tùy thuộc vào quan hệ hiện thực xác định.
XEM THÊM: THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
2. Quan điểm toàn diện trong triết học Mác – Lênin
Từ việc nghiên cứu
quan điểm biện chứng về mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện tượng, triết học
Mác – Lênin rút ra quan điểm toàn diện trong nhận thức. Vì bất cứ sự vật, hiện
tượng nào trên thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng
khác và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật, hiện
tượng, chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét
sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về
tính quy luật của nó.
Quan điểm toàn
diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng đắn về sự vật, hiện tượng, một mặt chúng
ta phải xem xét nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các
thuộc tính khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó. Mặt khác, chúng ta phải
xem xét nó trong mối liên hệ với các sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp).
Đề cập đến 2 nội dung này, Lênin viết “muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải
nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ trực tiếp và gián
tiếp của sự vật đó”.
Đồng thời quan
điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải biết
chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối
liên hệ tất nhiên…để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù
hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân. Đương nhiên,
trong nhận thức và hành động, chúng ta cũng cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn
nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện nhất định.
Trong hoạt động
thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta vừa phải
chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó, vừa phải chú ý tới những mối liên hệ
giữa sự vật ấy với các sự vật khác. Từ đó ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện
pháp, các phương tiện khác nhau để tác động vào sự vật nhằm đem lại hiệu quả
cao nhất.
Hơn thế nữa,
quan điểm toàn diện đòi hỏi, để nhận thức được sự vật cần phải xem xét nó trong
mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Ứng với mỗi con người, mỗi thời
đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ cũng chỉ phản
ánh được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về
sự vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ trọn vẹn. Ý thức được điều này,
chúng ta mới tránh được việc tuyệt đối hóa những tri thức đã có về sự vật và
tránh xem nó là những chân lí bất biến, tuyệt đối không thể bổ sung, không thể
phát triển. Để nhận thức được sự vật, cần phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ,
cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt để đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm
và sự cứng nhắc.
Quan điểm toàn
diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở chỗ nó chú ý tới nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ vẫn có thể là
phiến diện nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những thuộc tính, những quy định
khác nhau của sự vật được thể hiện trong những mối liên hệ khác nhau đó. Quan
điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều
mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn
tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG
QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN ĐỂ ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ KINH TẾ KẾ HOẠCH HÓA TẬP TRUNG
1. Nguồn gốc của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Ngày 30/4/1975 cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước hoàn toàn thắng lợi ,đất nước ta hoàn toàn thống nhất sau 21
năm kháng chiến trường kì. Cả nước bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển kinh
tế -xã hội .Định hướng của Đảng và Nhà nước: xây dựng nền kinh tế theo mô hình
kế hoạch hóa tập trung mà hiện nay Đảng cộng
sản Việt Nam gọi là mô hình “quan liêu bao cấp’’. Cơ chế này có nguồn gốc từ mô hình phát triển
kinh tế xã hội và cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch hóa tập trung của các nước xã
hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô.
Cơ chế này có những ưu điểm
thích hợp cho hoàn cảnh hiện tại của đất nước lúc đó , nhưng cũng có nhiều hạn
chế kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất nước sau này . Vậy cơ chế đó như thế
nào? Có ưu nhược điểm gì? Sau đây chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu.
2.
Ngày nay, khi nhắc
đến cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung ta thường chỉ nghĩ đến các mặt tiêu cực
của nó.
Thứ nhất, khi nền
kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên việc
áp dụng các thành tựu của nền khoa học và công nghệ hiện đại thì cơ chế này thủ
tiêu sự cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học công nghệ. Điều đó làm cho nền
kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng (Hình 2).
Thứ hai, nhà nước
quản lí kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu,
pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Tính pháp lệnh thể hiện ở chỗ:
nhà nước xây dựng các chỉ tiêu chủ quan, sau đó đưa xuống cho các doanh nghiệp,
thậm chí cả hợp tác xã thực hiện. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở quyết định
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Hệ thống
chỉ tiêu được thể hiện ở chỗ: nhà nước thực hiện chế độ bao cấp đối với mọi đơn
vị cấp dưới và doanh nghiệp nhà nước kể cả hợp tác xã ( Hình 3). Cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, từ cấp vốn, sản xuất đến khâu phân phối
sản phẩm nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lí với các quyết
định của mình( Hình 4). Giữa cơ quan
hành chính trực tiếp tham gia vào quá trình lên chỉ tiêu kế hoạch và các doanh
nghiệp thực hiện chỉ tiêu thì lại không có bất kì sự ràng buộc pháp lí nào với
hành động của mình, tức là dù có làm sai đi chăng nữa thì họ cũng không có vấn
đề gì cả, vì vậy mà không có lí do nào khiến họ thực hiện kế hoạch một cách tối
ưu nhất. Vấn đề mà cả hai bên quan tâm đó là chạy theo và chạy đua với chỉ tiêu
được ấn từ trên xuống. Ở giai đoạn này, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
được coi trọng đặc biệt. Từ đó hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế
khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, triệt tiêu động lực
kinh tế, lao động sáng tạo đối với người lao động, không kích thích tính năng động,
sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, bộ máy
quản lí cồng kềnh, nhiều cấp trung gian . Bộ máy quản lí này vừa kém năng động
vừa sinh ra đội ngũ kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu, nhưng lại được
hưởng quyền lợi cao hơn người lao động. Hoạt động kinh tế kém hiệu quả. Trong
thực tế, bộ máy nhà nước và doanh nghiệp quốc doanh còn xuất hiện tính tham ô.
Thứ tư, các hoạt
động giao dịch thương mại còn nhiều hạn chế: bán như cho, mua như cướp (Hình 5). Giá bán thấp hơn nhiều so với
số vốn bỏ ra nên mới có chuyện nhiều người dân tìm cách giấu lúa và nhiều chuyện
dở khóc dở cười. Ai mua thứ gì cũng phải đến hợp tác xã mua bán hay cửa hàng mậu
dịch quốc doanh. Để mua được thì rất khó khăn vì không đủ để cung cấp, mọi người
phải xếp hàng chầu chực để được mua với đặc trưng là chế độ tem phiếu: vật phẩm
tiêu dùng được phân phối theo định mức chứ không theo khả năng lao động. Tức là
người làm ít và người làm nhiều đều được phân phát vật phẩm như nhau. Vì thế chế
độ này thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối
theo lao động.
Thứ năm, trong thời kì này lạm phát bùng nổ (Hìnhh 6). Tiền phát hành nhiều mà vẫn không đủ, lương công nhân
không có; vật tư hàng hóa khan hiếm. Giá bán lương thực dù tăng mười lần vẫn
không đủ để bù đắp chi phí. Sản xuất nông nghiệp sa sút, đầu tư trong công nghiệp
giảm. Chỉ số giá bán lẻ của thị trường xã hội năm 1986 tăng 587,2% so với năm
1985. Do đồng tiền mất giá, người ta quay sang lấy vàng làm bản vị, khiến giá
vàng tăng vọt, còn nhanh hơn cả tăng giá hàng hóa. Tình trạng khan hiếm hàng
hóa khiến cuộc sống chật vật không những về số lượng mà cả về phẩm chất của nhiều
mặt hang
Tuy nhiên theo
quan điểm toàn diện chỉ nhìn sự vật, hiện tượng ở một mặt, một chiều thì không
thể đánh giá chính xác sự vật, hiện tượng mà cần phải đặt nó vào mối liên hệ cụ
thể trong từng hoàn cảnh, điều kiện lịch sử tương ứng. Cụ thể như cơ chế kinh tế
kế hoạch hóa tập trung, khi nhìn phiến diện ta chỉ có thể nhìn thấy mặt tiêu cực
mà không thể nhìn thấy những ưu điểm của nó.
Nhìn một cách toàn
diện, ta thấy bên cạnh những hạn chế, yếu kém của chế độ kinh tế tập trung thì
trong hoàn cảnh giai đoạn lịch sử những năm 70/XX chế độ kinh tế tập trung cũng
có những ưu điểm đóng góp nhất định cho đất nước:
Xét về mặt kinh tế:
Trong những năm 70/XX, thời kì kinh tế tăng trưởng theo chiều rộng, tức là dựa
vào tăng đầu tư khai thác tài nguyên, sức lao động giá rẻ và một số lợi ích
khác, cơ chế kinh tế tập trung có tác dụng nhất định. Nó cho phép tập trung tối
đa các nguồn lực kinh tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước vào các mục
tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, nhất là trong quá trình
công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Cơ chế này đã tạo
nên sự thống nhất, đồng bộ trong việc thực hiện các mục tiêu của cả nước .
Xét về mặt xã hội – chính trị:
Những năm 70/XX,
thời kì đất nước còn đang nằm dưới bom đạn chiến tranh, hai miền Nam – Bắc còn
bị chia cắt. Mục tiêu và nguyện vọng cùa cả dân tộc là đánh đuổi Mĩ Ngụy, giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước “ Non sông Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam
là một”. Trong hoàn cảnh đất nước ấy, cơ chế quản lý kinh tế hóa tập trung đã
đáp ứng được yêu cầu của thời chiến: Tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân, toàn
quân, hậu phương – tiền tuyến chung lòng. Thực hiện kế hoạch hóa tập trung sẽ
huy động được tối đa sức lực của toàn nhân dân trong việc xây dựng và phát triển
kinh tế, giúp miền Bắc hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ hậu phương chi viện cho miền
Nam. Nhiệm vụ và mục tiêu là giải phóng miền Nam thống nhất đất nước là của
toàn dân tộc chứ không riêng cá nhân ai.
Mặt khác, những
người chiến sĩ khi ra chiến trường có thề yên tâm về gia đình, cha mẹ, vợ con ở
nhà bởi mọi thứ đã được nhà nước bao cấp.
Chiến thắng lịch sử năm 1975, đất nước
dành thắng lợi hoàn toàn, thống nhất trên toàn lãnh thố. Sự thắng lợi ấy cũng
có phần nào vai trò của cơ chế kinh tế tập trung .
Sau khi đất nước
thống nhất, nhiệm vụ trước mắt quan trọng nhất lúc bấy giờ là khôi phục và phát
triển kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh. Chế độ kinh tế hóa tập trung đã
huy động được tinh thần, sức mạnh đoàn kết toàn dân. Nhanh chóng khắc phục hậu
quả chiến tranh ở hai miền Nam – Bắc, đưa đất nước sang giai đoạn phát triển (Hình 7a,7b).
Như vậy nếu nhìn một
cách toàn diện, đánh giá đa góc cạnh thì chế độ kinh tế tập trung cũng có nhiều
ưu điểm nhất định trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam những
năm 70/XX.
3.
Điểm phân biệt giữa quan điểm toàn diện và chủ nghĩa
Triết chung ở chỗ: trong khi nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong tổng thể các
mối liên hệ của nó, quan điểm toàn diện nhận thức được đâu là mối liên hệ quan
trọng, cơ bản hơn để từ đó đưa ra nhận định đúng đắn mà không hề dàn trải hay
cứng nhắc. Áp dụng vào vấn đề đang bàn luận, ta dễ dàng nhận thấy mối liên hệ
cơ bản nhất với cơ chế quan liêu bao cấp ở đây chính là hoàn cảnh lịch sử của
đất nước.
Liên hệ một chút tới đánh giá của quốc tế thì trong
bài trả lời phỏng vấn hãng tin nhà nước Rusia Today ( RT) vào ngày 15/2 vừa qua, Viện sĩ Yevgeny Primakov 85 tuổi,
người từng đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng Liên Bang Nga đã không ngớt lời tôn vinh mô hình kinh tế
của Liên Bang Xô Viết trước đây. Nhưng đó chỉ là một thời đã qua với cả Liên
Bang Xô Viết và Việt Nam ta bởi cả hai đều đã tiến hành cải cách kinh tế ( ở
Liên Xô là năm 1965 và Việt Nam là 1986 ). Nói như thế không có nghĩa cơ chế
bao cấp không hiệu quả nên phải thay đổi mà vì nó không còn phù hợp nữa.Ở nước
ta, thời kì đầu với hào khí dân tộc đang lên sau chiến thắng lẫy lừng của cuộc
kháng chiến chống Pháp, cũng như do được sống trong một chế độ hoàn toàn mới,
độc lập, tự do nên người dân tràn đầy hy vọng sẵn sàng đóng góp công sức, tiền
của của mình cho công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Vì thế lúc bấy giờ, cơ chế kế hoạch hóa tập trung là hoàn toàn phù hợp.
Và thực tế đã chứng minh tính đúng đắn của nó thông qua sức mạnh toàn dân tộc
mà nó tạo nên đã giúp nước nhà đánh tan giặc Mỹ, nước non thu về một mối.
Tuy nhiên, mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa vận hành
theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã dần bộc lộ rõ ràng hơn những hạn chế hết
sức to lớn mà trước đấy nó được chiến tranh che lấp thì bây giờ đã gây ra hiệu
quả trầm trọng mà đất nước phải gánh chịu. Nền kinh tế thiếu năng động, kém
hiệu quả, đất nước rơi vào tình
trạng lạc hậu, đời sống nhân dân ngày càng trở nên khó khăn, các căng
thẳng xã hội cũng vì thế mà gia tăng; dẫn đến một hệ quả tất yếu là ta phải
tiến hành cải cách kinh tế năm 1986 đưa đất nước sang giai đoạn phát triển mới.
Thời thế đã thay đổi thì dứt khoát cơ chế cũng phải
thay đổi sao cho phù độ hợp nếu không
muốn bị bỏ lại phía sau. Cũng giống như thế để có cái nhìn toàn diện về cơ chế
kế hoạch hóa tập trung, ta phải xác định được hoàn cảnh mà nó được áp dụng, đấy
là căn cứ quan trọng nhất để ta đánh giá về nó, tránh những đánh giá phiến
diện, sai lầm của không ít người hiện
nay. Bản thần cơ chế nó không có lỗi, mà là được áp dụng sai thời điểm và cuối cùng
thì cũng phải chịu bị phủ định trong quá trình phát triển của kinh tế đất nước
bởi một cái mới hơn: cơ chế thị trường.
Nhìn một cách toàn diện và
bao quát về chế độ quan liêu bao cấp thì nó cũng có những mặt ưu điểm riêng.
Tuy nhiên mặt ưu điểm lại vô cùng hạn chế thay vào đó là vô số những nhược điểm
khiến nước ta phải mất nhiều thời gian để thay đổi nếp nghĩ, tác phong từ chiến
đấu sang xây dựng. Bên cạnh đó, tư tưởng bao cấp, sự duy ý chí và chậm đổi mới
tư duy đã đưa dân ta đứng trước bao khó khăn vào cuối những năm tám mươi, đầu
chín mươi của thế kỷ trước. Hơn nữa trong nền kinh tế hội nhập hiện nay nó lại
trở nên vô cùng lạc hậu và không còn phù hợp nữa. Tất cả những hạn chế trên
không thể đổi lỗi cho cụ thể một cá nhân nào mà nó phải xét trên nhiều yếu tố
và các mặt khác nhau.
Thứ nhất là sự
quản lý chưa đúng đắn, thiếu kinh nghiệm của đảng ta. Đảng ta đã nghiêm túc kiểm
điểm, công khai thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm trước nhân dân và cho rằng,
nguyên nhân chính của những sai lầm, khuyết điểm trong những năm xây dựng chủ
nghĩa xã hội (1975-1985) của Đảng ta là do bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí,
từ đó dẫn đến sai lầm về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý phân phối lưu
thông, cải tạo xã hội chủ nghĩa; sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện.
+ Nhà nước quản
lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính, xây dựng các chỉ tiêu một cách chủ
quan, áp đặt từ trên xuống dưới khiến cho các doanh nghiệp chỉ quan tâm duy nhất
đến việc hoàn thành chỉ tiêu, hạn chế sáng tạo.
+ Các cơ quan
hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp. Làm hạn chế sự phát triển và đóng góp vào nền kinh tế của các thành phần
kinh tế khác.
+ Quan hệ hàng
hóa tiền tệ bị coi nhẹ
+ Bộ máy quản
lý cồng kềnh nhiều cấp trung gian. Hệ thống thể chế chưa đồng bộ, còn chồng
chéo, thiếu thống nhất, thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, trật tự kỷ
cương chưa nghiêm (Hình 8).
Hai là đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều yếu kém về phẩm chất, tinh thần,
trách nhiệm. Không ít cán bộ, công chức trong
các cơ quan hành chính nhà nước làm việc thiếu tích cực. Điều đó thể hiện ở chỗ:
nhiều cán bộ, công chức bảo thủ trong cách nghĩ, cách làm, thiếu sự năng động,
sáng tạo và đổi mới; cách làm việc quan liêu, hành chính hoá, không thạo việc,
tác phong chậm chạp, rườm rà, thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm... dẫn đến sự
trì trệ về phương thức hoạt động trong các cơ quan hành chính. Vẫn còn tồn tại
không ít hiện tượng áp đặt, quan liêu cửa quyền, tham nhũng, hối lộ, tuỳ tiện,
coi thường kỷ cương, kỷ luật công vụ.
Ba là, trong xu
thế hội nhập và phát triển quốc tế như hiện nay, các nước phát triển đang sử dụng
những ưu thế của mình gây ảnh hưởng, tạo sức ép, làm tổn hại nền độc lập dân tộc
của những nước chậm phát triển, trong đó có Việt Nam. Nếu như trước đây, chúng
ta vì Độc lập mà buộc phải hy sinh "No cơm, ấm áo", thì nay "No
cơm, ấm áo" đang trở thành "mồi nhử" của những nước lớn, nhằm
làm méo mó nội dung độc lập dân tộc của nhiều nước nghèo và nhỏ. Trong bối cảnh
tình hình này, không cho phép chúng ta tách mình biệt lập với cộng đồng thế giới,
mà phải chủ động tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, chủ động khai
thác những thuận lợi từ bên ngoài, dựa vào những tập hợp lực lượng có lợi, hạn
chế những tác động tiêu cực. Quá trình đó được kết hợp chặt chẽ với yêu cầu
tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Thông qua hội nhập quốc tế, khu vực các nước ASEAN để tăng cường sức mạnh
tổng hợp của quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Những nguyên
nhân trên đã cho ta thấy tại sao chế độ quan liêu bao cấp lại tồn tại nhiều nhược
điểm và không còn phù hợp với nước ta trong thời bình. Nước ta đang hướng tới đổi
mới tiến hành chuyển dần từ nền kinh tế tập trung ,quan liêu ,bao cấp sang thực
hiện cơ chế thị trường. Có như vậy nền kinh tế nước ta mới có thể được cải thiện
và phát tiển vững mạnh. Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát
triển thuận lợi, tạo dựng được các mối quan hệ với các nước đang phát triển,
hơn nữa là các nước phát triển để nước ta có thể chiếm lại ưu thế và sức ảnh hưởng
trên thị trường quốc tế.
PHẦN KẾT LUẬN
Áp dụng quan điểm
toàn diện về cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở Việt Nam đã cho ta cái nhìn sâu, rộng,
đúng đắn về vấn đề này. Mặc dù còn bộc lộ rất nhiều hạn chế nhưng ta không thể
phủ nhận vai trò và ưu điểm của cơ chế này. Khi nhìn nhận nó cần xem xét trên mọi
mặt, mọi mối quan hệ thì mới xác định được
đâu là những mặt nổi bật, những mối quan
hệ quan trọng nhất. Từ đó ta sẽ thấy được bản chất cơ chế kế hoạch hóa tập
trung không phải là tiêu cực mà chỉ là không được vận dụng sáng tạo, đúng đắn
vào tình hình đất nước cũng như bối cảnh lịch sử nước ta bấy giờ ,chính vì vậy
mới dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Nhận thức được điều đó Đảng ta đã đề ra
đường lối phát triển kinh tế mới và khắc phục những hạn chế của cơ chế kế hoạch
hóa tập trung mà vẫn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Từ vấn đề nêu
trên ta càng nhận thức rõ hơn về vai trò quan trọng của quan điểm toàn diện khi
nhìn nhận một vấn đề:
- Quan điểm này
đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn đúng đắn, khách quan về sự vật, hiện tượng để
rút ra bản chất. Phải đặt nó giữa các yếu tố bộ phận, các thuộc tính khác nhau
của chính sự vật đó và mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật khác ,đồng thời
luôn đặt trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
- Vận dụng quan
điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải có các biện pháp,
phương tiện khác nhau để hiểu cho rộng
nhưng cũng cần xác định đâu là cái cơ bản, cái quan trọng để hiểu sâu sắc
vấn đề . Mà theo như Lê - nin là kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dân chủ” và
chính sách “có trọng điểm
TRANH ẢNH MINH HỌA

Hình 1a

Hình 1b

Hình 2

Hình 3

Hình 4

Hình 5

Hình 6

Hình 7a

Hình 7b

Hình 8
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét