1. Những vướng mắc, bất cập về chế độ tài sản vợ chồng
trong thực tiễn
1.1 Tài sản chung của vợ chồng
1.1.1. Quy định về tài sản
chung
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 thì trong trường
hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản của vợ, chồng đang có tranh chấp là
tài sản riêng thì nó sẽ suy đoán là tài sản chung. Vấn đề xác định tài sản
chung, tài sản riêng của vợ, chồng dù trong thực tiễn rất khó phân biệt. Khi cuộc
sống vợ chồng càng kéo dài thì các tài sản sẽ có xu hướng lẫn lộn với nhau, đặc
biệt khi vợ chồng xác lập nhiều giao dịch liên quan đến tài sản. Do đó, không
phải lúc nào nguồn gốc của tài sản cũng có thể xác định được đâu là tài sản
chung và tài sản riêng. Quy định về tài sản chung mà nhà làm luật đặt ra trong
Khoản 3 điều 27 mang tính chất suy đoán. Với tư cách là một nguyên tắc suy đoán
thì không thể có sự khẳng định chắc chắn tất cả tài sản thời kỳ hôn nhân đều là
tài sản chung của vợ chồng. Quy định này chưa cụ thể gây khó khăn không chỉ
trong việc chứng minh tài sản là của chung hay riêng mà còn trở ngại đối với
người thứ ba, cụ thể là các chủ thể riêng của vợ, chồng trong việc yêu cầu kê
biên tài sản riêng.
Luật HN&GĐ năm 2000 đã khắc
phục được phần nào vướng mắc, phức tạp trong vấn đề xác định, phân chia tài sản
vợ chồng. Khoản 2 điều 27 quy định “Trong
trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải
đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả
vợ chồng” . Đây là quy định mới khẳng sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong
quan hệ về tài sản, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ quyền sở hữu của
hai bên vợ chồng. Qua đó có thể tránh được những tranh chấp phát sinh về quyền
tài sản giữa vợ chồng, đồng thời tạo cơ sở để tòa án giải quyết một cách đúng đắn
việc phân chia tài sản. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc áp dụng các quy định này
để chứng minh nguồn gốc của tài sản là tài sản chung hay tài sản riêng cũng hết
sức khó khăn, phức tạp.
1.1.2 Quy định về chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân
Theo quy định của luật, trong trường hợp có lý do chính đáng, việc chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể thực hiện thông qua thỏa
thuận bằng văn bản giữa vợ và chồng, hoặc quyết định của Tòa án; còn quan hệ
nhân thân giữa vợ chồng không thay đổi. Cụ thể: cuộc sống gia đình có những mâu
thuẫn bất hòa nhưng chưa muốn ly hôn hoặc chưa thể ly hôn vì nghĩ đến lợi ích của
con cái, danh dự, uy tín…; nhằm giảm bớt xung đột của vợ chồng trong quan hệ
tài sản; nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh của cá nhân, quyền tự chủ của các
bên khi tham gia vào quan hệ kinh tế xã hội; nhằm đảm bảo quyền lợi của người
thứ ba khi tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Quy định về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là cần thiết
nhưng chưa quy định cụ thể nguyên tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân, gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng giải quyết tranh chấp phát sinh. Đặc
biệt, trong trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà không có lý
do chính đáng thì bị tòa án tuyên bố là vô hiệu. Tuy nhiên luật chưa đề cập ai
là người có quyền yêu cầu tòa án hủy bỏ thỏa thuận chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân trong trường hợp thỏa thuận vi phạm tại Điều 28 luật HNGĐ. Tuy
nhiên khivợ chồng tự thỏa thuận chia tài sản chung thì không có cơ chế nào được
Luật nêu ra để kiểm soát được lý do chia tài sản chung của vợ chồng là có chính
đáng hay không mà chỉ quy định vô hiệu khi lý do lập ra là để trốn tránh nghĩa
vụ dân sự.
Việc pháp luật HN&GĐ chỉ công nhận vợ,
chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền yêu cầu Toà án chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân, quyền khởi kiện của người thứ ba trong trường hợp này không
được thừa nhận (Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000) là hoàn toàn phù hợp về mặt
nguyên tắc. Tuy nhiên, nếu áp dụng quy định này vào thực tiễn vẫn còn vấn đề
bất cập cần phải có sự vận dụng linh hoạt hơn. Theo luật hiện hành, khi vợ,
chồng có nghĩa vụ tài sản riêng thì nghĩa vụ tài sản đó được thực hiện bằng tài
sản riêng của họ, tài sản chung của vợ chồng không sử dụng cho việc thanh toán
các khoản nợ này trừ khi vợ chồng có thoả thuận (Điều 33 Luật HN&GĐ năm
2000). Vấn đề đặt ra là, rất có thể người có nghĩa vụ tài sản không có hoặc
không đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ và vợ chồng đã không có thỏa
thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung để trốn tránh việc thực hiện nghĩa
vụ tài sản. Trong trường hợp này, nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người
có quyền (chủ nợ) về chia tài sản chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của
người có nghĩa vụ thanh toán nợ, thì quyền lợi của họ được đảm bảo như thế nào?
Hậu quả pháp lý: Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi
người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Như
vậy, quyền sở hữu tài sản riêng của vợ chồng được mở rộng phạm vi đó là hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ tài sản riêng.
1.1.3. Quy định về chia tài sản chung khi ly
hôn
Thứ
nhất, việc
xác định tài sản chung trong trường hợp
vợ chồng thỏa thuận tài sản chung hoặc nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Pháp luật đã quy định "việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất
và các tài sản khác có giá trị lớn thuộc quyền sở hữu riêng của một bên vợ hoặc
chồng vào tài sản chung phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ và chồng"
(Khoản 1 Điều 13 Nghị định số 70). Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng đã nảy sinh nhiều
vướng mắc như giá trị tài sản là bao nhiêu thì được coi là tài sản có giá trị lớn
để việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung phải lập thành văn bản?
Và khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cơ quan có thẩm quyền có phải yêu
cầu vợ chồng xuất trình văn bản nhập tài sản riêng vào tài sản chung không? Quy
định trên chỉ áp dụng đối với trường hợp vợ, chồng nhập tài sản riêng vào tài sản
chung của vợ chồng hay áp dụng cả với trường hợp vợ chồng thỏa thuận tài sản
chung?
Thứ hai, xác định tài sản chung trong trường
hợp vợ chồng sống chung với gia đình. Trường hợp tài sản của vợ
chồng trong khối tài sản chung của gia đình không thể xác định được, vợ chồng,
gia đình và Tòa án sẽ phải căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo
lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung và đời sống chung của gia đình để
xác định. Tuy nhiên, việc đánh giá và quy đổi một vấn đề trừu tượng như công sức
đóng góp thành một khối lượng tài sản cụ thể là hết sức khó khăn đòi hỏi có sự
thiện chí hợp tác của gia đình.
Thứ ba, xác định tài sản chung là nhà ở, quyền sử dụng đất. Ttranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất và nhà ở
là phổ biến và cũng là các tranh chấp diễn ra gay gắt nhất. Do nhà ở và quyền sử
dụng đất là những tài sản có giá trị lớn, quá trình hình thành, chuyển nhượng
phức tạp trong khi đó, trình độ và ý thức tuân thủ pháp luật của người
dân còn hạn chế dẫn tới tranh chấp gia tăng, việc xác định tài sản chung của vợ
chồng gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, nhiều vụ tranh chấp tài sản chung là nhà ở,
quyền sử dụng đất kéo dài còn bắt nguồn từ sự yếu kém về trình độ chuyên môn của
một bộ phận thẩm phán không xác định đúng chủ sở hữu quyền sử dụng đất.
1.1.4. Quy định về chia
tài sản chung khi vợ hoặc chồng chết
Khi mà một bên vợ, chồng đã chết, việc xác định tài sản chung của vợ chồng
trong thực tế hết sức khó khăn, đặc biệt đối với những tài sản không đăng ký
quyền sở hữu, những trường hợp nhập tài sản riêng vào tài sản chung hoặc thỏa
thuận là tài sản chung mà không lập thành văn bản.
Chưa có quy định cụ thể
về nguyên tắc chia tài sản chung khi một bên vợ chồng chết. Nghĩa là trường hợp
vợ, chồng bị tòa án tuyên bố chết mà sau lại trở vệ, pháp luật mới dự liệu quan
hệ hôn nhân được khôi phục; còn vấn đề tài sản được xác định thể nào thì pháp
luật chưa quy định. Về nguyên tắc chia đôi tài sản chung của vợ chồng: Khác với
luật 1986, tại điều 29, 30, 31, 95 chỉ quy định nguyên tắc chia đôi tài sản
chung của vợ, chồng khi ly hon, không dự liệu khi 1 hoặc 2 người chết.
1.2. Tài sản riêng của
vợ chồng
Tài sản là đồ dùng, tư
trang cá nhân được ghi nhận là tài sản riêng của vợ, chồng khoản 1 điều 32.Đây
là quy định phù hợp với thực tế cuộc sống, bởi mọi cá nhân đều cần có sự độc
lập về những đồ dùng thiết yếu phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc
phục vụ cho nghề nghiệp của ik mình.Tuy nhiên việc quy định đồ dùng, tư trag cá
nhân là tài sản riêng mà không giải thích cụ thể sẽ có nhiều quan điểm khác
nhau về loại tài sản này. Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xã hội, đời
sống vợ chồng không ngừng được nâng cao, đồ dùng tư trag cá nhân trở nên rất đa
dạng,
Theo Khoản 3 điều 33
nghĩa vụ riêng về tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng được thanh toán từ tài
sản riêng của người có nghĩa vụ. Tuy nhiên quy định này còn quá chung chung,
chưa có căn cứ cụ thể thì dẫn đến khó khăn cho cả vợ chồng xảy ra tranh chấp và
cả tòa án khi xét xử.
2. Hướng hoàn thiện
2.1. Tài sản chung của vợ chồng
2.1.1.Chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân
Thứ
nhất, giới hạn quyền chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng. Pháp luật cần
quy định cụ thể về nghĩa vụ mà vợ, chồng có quyền thỏa thuận hoặc yêu cầu chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Đó là những
nghĩa vụ riêng mà vợ, chồng không có hoặc không đủ tài sản riêng để thực hiện
hoặc tài sản riêng đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ nhưng do đang được sử dụng
chung và hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đang là nguồn sống duy nhất của gia đình
nên phải thực hiện nghĩa vụ bằng phần tài sản của mình trong tài sản chung.
Thứ hai, quyền
yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng cho người thứ ba (người có quyền). Theo
em pháp luật cần quy định rõ: Trong trường hợp người có quyền có đủ chứng
cứ cho rằng, vợ chồng không có thoả thuận hoặc không yêu cầu Tòa án chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về
tài sản, thì người có quyền có thể yêu cầu Toà án chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản của người vợ hoặc người chồng
có nghĩa vụ thực hiện thanh toán các khoản nợ. Yêu cầu của người có quyền sẽ
không được Toà án công nhận, nếu việc chia tài sản chung ảnh hưởng nghiêm trọng
đến lợi ích gia đình của người có nghĩa vụ hoặc bản thân vợ, chồng có nghĩa vụ
có đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ.
Thứ ba, quy
định cụ thể trường hợp vợ chồng yêu cầu Tòa án chia tài sản chung và nguyên tắc
chia tài sản chung tại Tòa án. Nếu vợ chồng không thỏa
thuận được việc chia tài sản có thể yêu cầu tòa án giải quyết. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ và các văn bản
hướng dẫn có liên quan chưa quy định cụ thể nguyên tắc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân khi việc chia tài sản chung đó thuộc thẩm quyền của
Toà án. Do đó, trong thực tiễn áp dụng, Toà án sẽ gặp khó khăn khi vận dụng căn
cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh. Trước đây, Điều 18 Luật
HN&GĐ năm 1986 đã quy định: “Khi
hôn nhân còn tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể
chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định ở Điều 42 (nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn) của Luật này”. Trên cơ sở kế thừa quy định trên của Luật HN&GĐ năm 1986, theo em
cần thiết phải quy định một giải pháp như sau: Khi chia tài sản chung, Toà án căn cứ vào lý do, mục đích
chia tài sản chung để quyết định phạm vi tài sản chung được chia. Việc chia tài
sản chung căn cứ vào các nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn quy định tại Điều
95 của Luật HN&GĐ; nếu tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất thì áp dụng
các quy định tại các điều 97, 98 và 99 của Luật HN&GĐ.
Pháp luật nên có hướng dẫn cụ thể về trường hợp vợ chồng không
thỏa thuận được về chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân để làm cơ sở cho vợ chồng thực hiện cũng như Tòa án khi
thụ lý, giải quyết yêu cầu của vợ chồng. Đồng thời, Luật HN&GĐ năm 2000
cũng cần được bổ sung nguyên tắc chia tài sản chung tại Tòa án. Có thể quy định
nguyên tắc chia theo hướng Tòa án căn cứ
vào lý do, mục đích chia tài sản chung để quyết định phạm vi tài sản chung được
chia. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc chia tài sản
chung khi ly hôn. Quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung đều phải công
chứng, chứng thực hoặc được Tòa án công nhận
Thứ tư, quy định cụ thể về lý
do chính đáng. Pháp luật cần quy định cụ thể tiêu chuẩn đánh giá lý do là chính
đáng hay không chính đáng. Theo em lý do là chính đáng khi thuộc một trong các trường hợp: Vợ hoặc chồng thường xuyên
có hành vi phá tán tài sản chung; vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc trong việc quản
lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung; một bên vợ hoặc chồng bị coi là
vắng mặt tại nơi cư trú hoặc bị tuyên bố mất tích theo quy định tại Điều 74 và
Điều 78 BLDS năm 2005.
Ngoài ra cũng cần quy định cụ thể: Trong
trường hợp vợ chồng không thoả thuận được việc bảo đảm các nhu cầu chung của
gia đình, thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.Toà án quyết định mức đóng góp
của các bên trên cơ sở nhu cầu thực tế của gia đình và khả năng kinh tế của các
bên hoặc quyết định không chia toàn bộ tài sản chung, phần tài sản chung không
chia được sử dụng cho nhu cầu của gia đình.
Thứ năm, bổ sung thêm quy định về hậu quả pháp lý của chế định
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân cần được quy định chặt chẽ và hợp lý hơn "Tài sản mà vợ chồng có được sau khi chia tài
sản chung do được thừa kế chung, tặng cho chung là tài sản chung của vợ chồng,
trừ trường hợp người để lại tài sản thừa kế, người tặng cho tài sản đã có sự
phân định rõ quyền của mỗi bên vợ, chồng trong khối tài sản đó. Thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên
sau khi chia tài sản chung là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng
có thỏa thuận khác".
Việc chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân theo quy định của pháp luật không làm thay đổi quan hệ
nhân thân giữa vợ và chồng và quan hệ giữa cha mẹ và con. Thực tế, việc vợ
chồng áp dụng chế định này đã phản ánh những mâu thuẫn tồn tại trong quan hệ
giữa họ. Sự độc lập về tài sản sau khi chia tài sản chung, có thể dẫn đến vợ
chồng sống ly thân hoặc một trong các bên lại lẩn tránh trách nhiệm đối với gia
đình, từ đó có tranh chấp về việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa
thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả
năng lao động, không có thu nhập, không có tài sản để tự nuôi mình. Để bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của các con, theo em, pháp luật cần quy định rõ: Trong
trường hợp sau khi chia tài sản chung, vợ chồng có tranh chấp về chăm sóc, nuôi
dưỡng và giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi
dân sự, không có khả năng lao động, không có thu nhập và không có tài sản để tự
nuôi mình, thì Toà án quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của các cá
nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Việc giải quyết tranh chấp liên quan đến
con áp dụng tương tự quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con khi ly
hôn.
Thứ sáu, quy định cụ thể về thuế, lệ phí liên quan đến tài sản được
chia khi vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Để tránh tình trạng
né tránh làm văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ
chồng đang diễn ra phổ biến trong thực tế, chúng tôi đề nghị các văn bản luật
có liên quan, cụ thể là luật thuế thu nhập cá nhân hoặc văn bản hướng dẫn và
Nghị định quy định về lệ phí trước bạ phải dự liệu thêm trường hợp chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân (đối với các tài sản là bất động sản, tài sản khác
phải đăng ký quyền sở hữu) là trường hợp được miễn thuế, không phải nộp lệ phí
trước bạ.
2.1.2. Chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn
Thứ nhất, hướng dẫn cụ thể về hình thức nhập tài sản riêng vào tài
sản chung theo quy định tại Khoản 2 Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2000. Việc thỏa thuận tài sản chung và việc
nhập tài sản riêng của một bên vợ, chồng vào tài sản chung của vợ chồng phải được
lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ và chồng nếu theo quy định của pháp luật
tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng
Thứ hai, hướng dẫn cụ thể về nguyên tắc chia tài sản chung khi vợ
chồng sống cùng với gia đình. Quy định tại Điều 96 Luật HN&GĐ năm 2000 cần
được hướng dẫn cụ thể hơn về cách đánh giá công sức đóng góp, quy tắc "chia một phần trong khối tài sản chung".
Việc có hướng dẫn chính thức từ phía TANDTC về các vấn đề trên sẽ giúp cho Tòa
án các cấp có hướng giải quyết đúng đắn đối với các yêu cầu chia tài sản chung,
đặc biệt là trường hợp vợ chồng yêu cầu chia tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất
chung của gia đình.
2.1.3. Chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng
chết
Thứ nhất, quy định nguyên tắc chia tài sản chung khi vợ hoặc chồng
chết. Cần quy định nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ hoặc
chồng chết trước làm cơ sở giải quyết cho Tòa án các cấp. Trong trường hợp này
chúng ta có thể kế thừa quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 và Pháp lệnh thừa
kế năm 1990 để quy định "Khi một bên
vợ hoặc chồng chết trước, nếu cần chia tài sản chung thì chia đôi. Phần tài sản
của người chết được chia theo quy định của pháp luật thừa kế".
Thứ hai, quy định rõ hậu quả của việc hủy bỏ quyết định tuyên bố vợ
hoặc chồng là đã chết. Về hậu quả của việc hủy bỏ quyết định tuyên bố vợ hoặc
chồng đã chết em xin kiến nghị một số hướng sửa đổi như sau:
- Nếu luật vẫn tiếp tục quy định khi có quyết định hủy bỏ
quyết định tuyên bố vợ, chồng chết, quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục
nếu người còn sống chưa kết hôn với người khác, thì cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề khôi phục quan hệ tài sản của vợ chồng đặc
biệt là thời điểm khôi phục để có cơ sở xác định chính xác tài sản chung của vợ
chồng.
- Quy định theo hướng
quan hệ hôn nhân chấm dứt khi một người bị tuyên bố là đã chết, ngay cả trong
trường hợp sau này quyết định đó bị hủy bỏ. Nếu quy định theo hướng này,
trước tiên chúng ta sẽ phải sửa đổi Khoản 2
Điều 83 BLDS năm 2005 sau đó mới có thể sửa Điều 26 Luật HN&GĐ năm
2000 để tránh tình trạng luật chuyên ngành mâu thuẫn với luật chung.
Ngoài ra, để nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng, em xin có 1 số kiến
nghị sau:
* Nâng cao chất lượng
xét xử các vụ việc liên quan tới chia tài sản chung của vợ chồng.
* Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển các tổ chức
hành nghề công chứng. Mọi văn bản thỏa thuận
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đều phải công chứng hoặc
được Tòa án công nhận thì cần thiết phải có cơ chế hỗ trợ công chứng phát triển.
Vì vậy, việc cấp phép thành lập mới các văn
phòng công chứng tư phải đảm bảo theo quy hoạch, phân bổ hợp lý giữa các vùng,
các địa phương. Đồng thời, Nhà nước cũng cần xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát
hiệu quả để đảm bảo chất lượng công chứng.
* Triển khai đồng bộ,
nghiêm túc quy định pháp luật về đăng ký tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
* Tuyên truyền, phổ biến
sâu, rộng pháp luật hôn nhân và gia đình đặc biệt là các quy định về tài sản
chung của vợ chồng. Cần đẩy mạnh tuyên truyền
và nâng cao nhận thức của vợ chồng về các quy định liên quan đến tài sản của vợ
chồng như quy định pháp luật về tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng, hình
thức, thủ tục thực hiện các giao dịch về tài sản, quy định về đăng ký quyền sở
hữu tài sản chung…
2.2. Tài sản riêng của vợ chồng
Tài sản là đồ dùng tư trang cá nhân được ghi nhận là tài
sản riêng của vợ chồng theo Khoản 1 điều 32. Tuy nhiên, việc quy định đồ dùng
tư trang cá nhân là tài sản riêng mà không giải thích cụ thể sẽ có nhiều quan
điểm khác nhau về loại tài sản này. Vì vậy, khi xác định là tài sản riêng cần
xem xét nguồn gốc và giá trị của đồ dùng, tư trang cá nhân đó so với giá trị khối
tài sản chung và thu nhập của vợ chồng. nếu giá trị đó khá lớn và tài sản được
sử dụng vào muc đích chung của gia đình thì không nên coi đó là tài sản riêng.
Do đó, Luật cần quy định cụ thể nguồn gốc tài sản là đồ dùng tư trang cá nhân
bao gồm những gì thuộc tài sản riêng vợ chồng. Vậy ở đây chúng ta có thể hiểu đồ
dùng tư trang cá nhân là tài sản riêng với nguồn gốc phát sinh từ tài sản chung
hay riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, phục vụ trực tiếp cho công việc,
nghề nghiệp, nhu cầu sinh hoạt hang ngày của cá nhân vợ, chồng; mặt khác khi có
tranh chấp về loại tài sản này, theo từng trường hợp cụ thể mà xem xét đồ dùng,
tư trang cá nhân có nguồn gốc và giá trị như thế nào so với khối tài sản chung
của vợ chồng và mức thu nhập thực tế của vợ chồng để xác định chính xác và hợp
lý.
Tóm lại, quy định
pháp luật về chia tài sản của vợ chồng có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và
thực tiễn, để các quy định này được áp dụng đúng và hiệu quả cần phải kết hợp
nhiều giải pháp và thực hiện những giải pháp đó một cách đồng bộ trên thực tế từ
việc sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật đến việc nâng cao trình độ chuyên môn
đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật, tuyên truyền phổ biến pháp luật...
Nguồn: Tư vấn Luật An Sinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét