Bài làm:
Trong
những năm gần đây, khi nền kinh tế mở cửa, phát triển theo xu hướng hội nhập,
thì hoạt động tư vấn pháp luật ngày càng phát triển và có vai trò quan trọng. Tuy
nhiên, không vì nhu cầu xã hội đòi hỏi mà Luật sư có thể ồ ạt đổ vào hành nghề
tư vấn pháp luật, vì tư vấn pháp luật được xem là một công việc đòi hỏi rất cao
không chỉ về kỹ năng mà còn cả về chuyên môn, nghiệp vụ, đồng thời phải tuân
thủ một cách nghiêm ngặt những nguyên tắc nhất định. Trong số đó, nguyên tắc: “tránh xung đột lợi ích trong tư vấn pháp
luật” là một trong những nguyên tắc cơ bản để luật sư có thể thực hiện công
việc tư vấn. Sau đâu em xin chọn vấn đề “Nguyên
tắc tránh xung đột lợi ích trong tư vấn pháp luật dân sự” làm đề tài cho
bài liểu luận của mình.
1. Tư vấn pháp luật.
Tư vấn
pháp luật là việc Luật sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng soạn thảo
các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ (Điều 28 Luật
Luật sư); hoặc nói cách khác, tư vấn pháp luật là “Phát biểu những ý kiến về
những vấn đề do khách hàng đặt ra trên cơ sở các văn bản pháp luật mà không có quyền
quyết định”, giúp khách hàng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Như vậy,
tư vấn pháp luật chính là việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn ứng xử đúng pháp
luật, cung cấp dịch vụ pháp lý nhằm giúp công dân, tổ chức trong và ngoài nước
thực hiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Nhìn
dưới góc độ Luật sư, tư vấn pháp luật là:
- Đưa ra
một giải pháp pháp lý cho một tình huống cụ thể;
- Hướng
dẫn khách hàng ứng xử đúng pháp luật.
Theo
nghĩa rộng, tư vấn pháp luật còn là cung cấp các dịch vụ pháp lý khác sau tư
vấn. Ví dụ: đại diện cho khách hàng thực hiện một công việc cụ thể, tham gia tố
tụng tại Tòa án, v.v…
* Đặc
điểm cơ bản của tư vấn pháp luật là:
- Về
phía khách hàng: là người mang đến tình huống pháp luật đòi hỏi có sự tham gia
của luật sư để làm sáng tỏ vấn đề.
- Về
phía Luật sư: dựa trên những tình huống, thông tin mà khách hàng cung cấp, Luật
sư thông tin, chỉ dẫn cho khách hàng một hành lang an toàn pháp lý.
Ví dụ:
Thông tin khách hàng mang đến là “vấn đề có hợp pháp hay không?”; Luật sư sẽ tư
vấn cho khách hàng biết luật quy định vấn đề này như thế nào, Trình tự, thủ tục
tiến hành ra sao.
Do đó,
Luật sư cần phải:
- Chỉ
dẫn, đưa ra lời khuyên (chính kiến của Luật sư);
- Chỉ ra
những điểm mạnh và điểm yếu của khách hàng (rủi ro);
- Đánh
giá mức độ rủi ro để khuyên khách hàng hành động hay không hành động;
- Đưa ra
những giải pháp cụ thể cho khách hàng lựa chọn.
Mục tiêu
của tư vấn là:
- Giải
pháp tư vấn phải mang lại hiệu quả kinh tế;
- Trong
đời sống giao dịch thì đó là hành lang an toàn pháp lý, tiên liệu được rủi ro,
đề ra được giải pháp thực hiện nhằm tránh hoặc hạn chế rủi ro;
- Yêu
cầu đặt ra trong khi tư vấn là các bên (Luật sư và khách hàng) phải tuân thủ
pháp luật, nguyên tắc đạo đức và ứng xử của nghề Luật sư, độc lập, khách quan,
tôn trọng sự thật, trung thực… trên cơ sở mọi vấn đề đều phải được giải quyết
căn cứ theo pháp luật.
Tuy
nhiên, cuộc sống hiện nay thường diễn biến phức tạp, luôn xảy ra những tình
huống mà pháp luật không thể dự liệu được. Vì vậy, Luật sư cần phải vận dụng nguyên
tắc “công dân được phép làm những gì pháp luật không cấm” cho phù hợp.
Khi tư
vấn pháp luật, luật sư cũng cần chú ý dự liệu trước những tình huống bất chắc
có thể xảy ra bởi trên thực tế, ở Việt Nam là các cơ quan tố tụng và cơ quan
hành chính chưa có sự tuân thủ pháp luật một cách triệt để, nghiêm túc.
XEM THÊM: THỦ TỤC GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
2. Xung đột lợi ích trong tư vấn pháp luật.
Xung đột
lợi ích có thể được hiểu là sự va chạm, tranh giành giữa những chủ thể này với
chủ thể khác vì những mâu thuẫn đối địch về quyền và lợi ích mà mỗi bên cho
rằng chính đáng thuộc về họ.
Hiện nay, môi trường
dịch vụ pháp lý phát sinh các xung đột lợi ích rất đa dạng, không chỉ nảy sinh
giữa các cá nhân, cơ quan, doanh nghiệp khi cùng nhờ đến sự tư vấn của một luật
sư hay một công ty luật, mà còn có thể phát sinh khi cá nhân tổ chức nhờ luật
sư tư vấn mà người có quyền lợi đối lập với họ lại chính là người thân của luật
sư. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp luật sư nhận tư vấn của khách hàng có
quyền và lợi ích đối lập với nhân viên của văn phòng luật sư do luật sư đó quản
lý. Đối với những trường hợp như vậy, luật sư hay công ty luật nếu không xử lý
đúng đắn các xung đột về lợi ích thì bản thân khách hàng cũng như nhân viên của
họ sẽ bị xâm hại các quyền và lợi ích pháp lý.
Đối với những trường hợp như trên thì rất cần thiết có
những biện pháp để hạn chế đến mức tối thiểu xung đột lợi ích, nhằm đảm bảo sự
khách quan, minh bạch trong quá trình cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư. Có những
cách điều chỉnh khác nhau, nhưng nhìn chung, có hai công cụ hiệu quả, đó là
pháp luật và các quy phạm đạo đức.
Về mặt
pháp luật, việc điều chỉnh các xung đột lợi ích, định hướng theo những quy
chuẩn nhằm tránh những bất lợi cho các chủ thể là mong muốn chung của tất cả
mọi người trong xã hội. Với mỗi loại xung đột có thể xảy ra mà các nhà làm luật
dự liệu được, pháp luật đưa ra những quy chuẩn trong hành xử của các chủ thể
khi tham gia vào các quan hệ được pháp luật dự liệu. Tuy nhiên sẽ có những quan
hệ phát sinh xung đột lợi ích nằm ngoài những dự liệu của pháp luật, khi đó đòi
hỏi phải có những quy định mang tính phổ quát nhằm điều chỉnh vấn đề mới phát
sinh.
Bên cạnh
pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp cũng là một trong những công cụ hiệu quả
nhằm điều chỉnh vấn đề này. Các quy tắc đạo đức định ra cho mỗi chủ thể những
rào cản đạo đức mỗi khi chủ thể định phá vỡ hay vượt ra bên ngoài nhằm thoả mãn
các lợi ích tư của mình. Trên cơ sở các quy định pháp luật, những quy tắc đạo
đức được xem là công cụ hữu hiệu nhằm hạn chế những xung đột lợi ích trong hoạt
động nghề nghiệp của luật sư.
II. NGUYÊN TẮC TRÁNH XUNG ĐỘT LỢI ÍCH TRONG TƯ VẤN PHÁP LUẬT
1. Cơ sở của nguyên tắc tránh xung đột lợi ích trong tư vấn
pháp luật.
a. Luật Luật sư 2006.
Pháp
luật về luật sư có quy định rất rõ về việc hạn chế xung đột lợi ích trong tư
vấn pháp luật. Cụ thể: điểm a Khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư 2006 quy định như
sau:
“1. Nghiêm cấm luật sư thực hiện các hành vi sau đây:
a) Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối
lập nhau trong cùng vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính, việc dân sự,
các việc khác theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là vụ, việc)”
Vì vậy,
Luật sư không được tư vấn cho cả hai bên có quyền lợi đối lập nhau trong cùng
một vụ việc. Việc hạn chế tư vấn cho các bên có quyền lợi đối lập nhau trong
một vụ việc cũng được áp dụng đối với các luật sư trong cùng một văn phòng luật
sư hay công ty luật.
Ví dụ:
Trong cùng một văn phòng Luật sư (hay công ty luật) thì không được nhận tư vấn
pháp luật cho bên nguyên lẫn bên bị của cùng một vụ án.
Trong
trường hợp phát hiện có mâu thuẫn trong khi bắt tay vào công việc, Luật sư phải
ngừng ngay công việc cho khách hàng khi có sự phát sinh đối kháng về quyền lợi
giữa các khách hàng này.
b. Quy tắc đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam .
Có thể
thấy, Bộ quy tắc này cũng đặt ra những quy tắc cụ thể để hạn chế việc cung cấp
dịch vụ pháp lý đối lập dẫn đến xung đột lợi ích.
+ Quy
tắc 9.1.5 quy định Luật sư từ chối nhận vụ việc của khách hàng khi nhận thấy có
sự xung đột về lợi ích mà không giải quyết được nếu tiếp nhận vụ việc đó.
+ Quy
tắc 9.2.7 quy định luật sư từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc đã nhận của khách
hàng trong trường hợp phát hiện vụ việc có sự xung đột về lợi ích.
+ Quy
tắc 11 quy định rõ, xung đột lợi ích là sự đối lập về quyền lợi vật chất hay
tinh thần đã xảy ra hoặc có khả năng xảy ra giữa hai hay nhiều khách hàng của
luật sư; giữa luật sư, nhân viên, vợ, chồng, con, cha mẹ, anh em của luật sư
với khách hàng trong cùng một vụ việc hoặc trong những vụ việc khác có liên
quan đến vụ việc đó.
Như vậy,
có thể thấy rằng Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp do Liên đoàn luật sư
ban hành có quy định cụ thể hơn và dự liệu nhiều trường hợp có thể dẫn đến xung
đột lợi ích hơn so với quy định của Luật luật sư. Cụ thể Quy tắc ứng xử quy
định nguyên tắc tránh xung đột lợi ích phát sinh không chỉ giữa khách hàng của
luật sư với nhau mà còn dự liệu sự xung đột giữa luật sư, nhân viên, vợ, chồng,
con, cha mẹ, anh em của luật sư với khách hàng trong cùng một vụ việc. Đồng
thời, Quy tắc ứng xử cũng quy định nguyên tắc tránh xung đột lợi ích không chỉ
xác định trong phạm vi một vụ việc cụ thể mà còn áp dụng giữa các vụ việc có
liên quan với nhau trong khi đó Luật luật sư chỉ cấm luật sư cung cấp dịch vụ
pháp lý đối với các khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng một vụ
việc.
2. Ý nghĩa của nguyên tắc.
Nguyên
tắc này được xem là yêu cầu rất cần thiết không chỉ nhằm bảo vệ tốt nhất quyền
và lợi ích chính đáng của khách hàng, mà đồng thời giảm thiểu những rủi ro
trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của luật sư, bởi nếu luật sư tạo ra xung
đột lợi ích giữa khách hàng mà không giải quyết được dẫn tới ảnh hưởng quyền
lợi của họ thì uy tín, hình ảnh của luật sư sẽ bị giảm đáng kể.
Theo
nguyên tắc, thì một trong những yêu cầu của luật sư khi cung cấp dịch vụ pháp
lý đó là Luật sư phải lựa chọn cho mình vụ việc mà không có bất kì xung đột lợi
ích giữa các khách hàng hay giữa khách hàng với người thân của mình, mục
đích là để Luật sư có thể đưa ra được
những lời tư vấn vô tư cho khách hàng của mình. Điều này cũng có nghĩa là luật
sư không được nhận việc nếu có nguy cơ xung đột về quyền lợi với các khách hàng
khác.
Trong
mối quan hệ giữa Luật sư với khách hàng, chỉ khi hoàn toàn không bị vướng mắc,
không bị áp lực hay ảnh hưởng của các bên có liên quan thì Luật sư mới có thể đảm
bảo một cách tốt nhất quyền và lợi ích cho họ.
Với ý
nghĩa như vậy, nguyên tắc vạch ra cho luật sư những trường hợp cần thiết phải
từ chối tiếp tục cung cấp dịch vụ cho khách hàng để tránh xung đột về lợi ích,
đó là các trường hợp sau:
- Nếu Luật sư được yêu cầu tiến hành
một vụ kiện chống lại khách hàng cũ.
- Nếu có chắc chắc xảy ra xung đột về quyền lợi giữa Luật sư và khách hàng hoặc giữa hai khách hàng của Luật sư.
- Nếu có chắc chắc xảy ra xung đột về quyền lợi giữa Luật sư và khách hàng hoặc giữa hai khách hàng của Luật sư.
- Nếu có xung đột lợi ích giữa khách
hàng với Luật sư, nhân viên, vợ, chồng, con, cha mẹ, anh em của luật sư với
khách hàng trong cùng một vụ việc hoặc trong những vụ việc khác có liên quan
đến vụ việc đó.
3. Phạm vi của nguyên tắc tránh xung đột lợi ích trong tư vấn
pháp luật
a) Luật sư không tư vấn
cho khách hàng nhằm chống lại khách hàng mà luật sư đã nhận tư vấn trước đó.
Ví dụ: dư luận trước đây từng ồn ào
về vụ án “có một không hai” về số tiền thắng bạc
55,5 triệu USD (khoảng 1.200 tỷ đồng) giữa ông Ly Sam (Việt kiều Mỹ) và công ty
Liên Đại Dương (khách sạn Sheraton Sài Gòn). ngày 25/10/2009, ông đến
Câu lạc bộ Palazzo thuộc khách sạn Sheraton Sài Gòn và chơi tại máy đánh bạc số
13. Sau nhiều lần bỏ 300 USD vào máy chơi và bị thua trừ gần hết tiền, ông may
mắn được máy báo trúng thưởng số tiền hơn 55,5 triệu USD. Ông Ly Sam gọi nhân
viên câu lạc bộ đến ghi nhận kết quả và trả thưởng nhưng không được chấp nhận.
Ông lập biên bản lấy ý kiến những người làm chứng về kết quả này.Đã nhiều lần
yêu cầu công ty Liên Đại Dương chủ đầu tư của câu lạc bộ Palazzo trả thưởng
không được, ông Ly Sam đã làm đơn khởi kiện ra tòa. Ngoài số tiền trúng thưởng,
ông còn đòi bị đơn phải trả số tiền lãi suất do chậm trả.
Giả sử
luật sư đang nhận tư vấn cho ông Ly
Sam trong vụ kiện mà nhận được yêu cầu từ phía công
ty Liên Đại Dương với mục đích tư vấn để chống lại ông Ly Sam. Trong trường hợp này,
rõ ràng về mặt pháp luật và đạo đức nghề nghiệp thì không cho phép luật sư nhận
lời mời tư vấn của công ty Liên Đại Dương mà
nên khéo léo từ chối để công ty Liên Đại Dương
tìm đến luật sư khác.
b) Luật sư không nhận
tư vấn cho hai khách hàng nếu nhận thấy chắc chắn sẽ có sự xung đột lợi ích
trong khi tư vấn.
Trong
hợp đồng mua bán tài sản, mục đích hướng đến của các bên đều là lợi nhuận và
luôn cố gắng làm sao để đạt được lợi ích cao nhất. Người mua cốt sao mua được
giá càng rẻ càng tốt, người bán cốt sao bán được giá càng đắt càng hay. Do đó,
thiệt hại của bên này chính là lợi ích của bên kia nên xung đột lợi ích giữa
bên mua và bên bán là điều tất yếu. Chính vì vậy, Luật sư không thể làm tròn
trách nhiệm nghề nghiệp của mình đối với cả hai bên mua và bán tài sản trong
cùng một vụ mua bán.
Ví dụ: Đối
với trường hợp mua bán tài sản là nhà ở, hiện nay những vụ kiện giữa người mua
nhà và chủ đầu tư diễn ra ngày càng nhiều. Nguyên nhân của thình trạng này chủ
yếu xuất phát từ sự thiếu minh bạch trên thị trường nhà đất và hợp đồng mua bán
nhà không chặt chẽ. Do xuất phát từ mục đích của các chủ đầu tư khi soạn thảo
hợp đồng mua bán nhà thì luôn muốn quy định sao cho có lợi nhất cho mình và rủi
ro luôn thuộc về phía khách hàng.
Trong
khi đó, người mua nhà không có cơ hội đàm phán về hợp đồng và các thủ tục, mà
thường chấp nhận hợp đồng do chủ đầu tư soạn sẵn. Đồng thời, thông tin về các
dự án không được công bố rộng rãi, nên người mua nhà cũng không có cơ hội tìm
hiểu kỹ về bất động sản trước khi đặt bút ký hợp đồng. Thậm chí, nhiều người
mua nhà chấp nhận mua theo hình thức “góp vốn” hay bằng giấy viết tay, mà không
cần đến hợp đồng. Vì thế, khi có trục trặc xảy ra, lợi thế vẫn thuộc về chủ đầu
tư và quyền lợi cho khách hàng khó được bảo đảm.
Do vậy,
khi đứng trên cương vị là người bảo vệ quyền lợi cho khách hàng là người mua
nhà nói riêng và khách hàng khác nói chung thì luật sư luôn phải hướng dẫn,
giải thích những biện pháp nhằm hạn chế tối đa rủi ro mà khách hàng có thể gặp
phải khi tham gia ký kết hợp đồng. Bởi vậy, luật sư nếu cùng lúc lại tiếp nhận
yêu cầu tư vấn của chủ đầu tư trong quan hệ mua bán nhà trên thì chắc chắn sẽ
gặp phải xung đột về lợi ích giữa bên mua – bên bán như đã phân tích ở trên.
Cách xử lý tốt nhất của luật sư trong tình huống này đó là từ chối yêu cầu tư
vấn của một bên để đảm bảo tốt nhất lợi ích cho bên còn lại.
c) Luật sư không cùng
lúc nhận tư vấn cho hai chủ thể có quyền lợi đối lập trong một vụ việc (nguyên đơn và bị đơn trong cùng
một vụ án).
Trong
một vụ án dân sự, luật sư hay những luật sư làm việc trong cùng một văn phòng,
công ty luật về nguyên tắc thì không được nhận tư vấn cho cả hai bên đương sự
đối lập trong các vụ án đó. Chẳng hạn bên bị đơn và nguyên đơn trong một vụ
việc đều đến nhờ luật sư tư vấn thì luật sư nên cân nhắc lựa chọn một bên làm
khách hàng thay vì nhận lời cả hai bên.
Ví dụ: A
có vay của Ngân hàng 100 triệu đồng để kinh doanh. Do tài sản của A ko đủ để
thế chấp, A đã mượn 3 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh, em để thế chấp
cho ngân hàng. Do kinh tế có nhiều biến đông và bản than chưa quen với việc
kinh doanh nên A thua lỗ và mất khả năng trả nợ.
Nhận thấy
tình hình kinh doanh của A không đảm bảo được khả năng trả nợ nên phía ngân
hàng có nhờ Luật sư B tư vấn về việc giải quyết thu hồi nợ do A đã vay, đồng
thời Luật sư B cung nhận được yêu cầu tư vấn của A để tìm các kẽ hở trong hợp
đồng hòng trốn tránh nghĩa vụ trả tiền.
Như vậy, có thể thấy rằng trong vụ án này, quyền lợi của A
và ngân hàng là đối lập nhau. Luật sư nhận nhận yêu cầu của cả cả hai và tư vấn
cho bên phía ngân hàng kiện ba người cho mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, trong trường hợp những người cho mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất này nhất định không trả nợ thay thì vụ việc sẽ phải được đem ra Tòa án giải
quyết trong đó hai khách hàng của luật sư một bên trở thành nguyên đơn còn một
bên sẽ là bị đơn. Như vậy luật sư sẽ không thể đảm bảo quyền lợi cho hai khách
hàng này được. Do vậy, trong ví dụ này, luật sư hoàn toàn không nên nhận tư vấn
cho cả hai mà chỉ nên cân nhắc lựa chọn một trong hai để cung cấp dịch vụ.
d) Khách hàng yêu cầu tư vấn về một
tài liệu mà Văn phòng của Luật sư đã soạn thảo cho một khách hàng khác.
Tài liệu mà văn phòng Luật sư đã soạn
thảo cho khách hàng của mình có thể là hợp đồng mua bán, di chúc, thỏa thuận về
phân chia tài sản chung, v.v… nhằm đạt được hiệu cả kinh tế cao nhất cho khách
hàng của mình. Nếu có một khách hàng khác đến yêu cầu Luật sư tư vấn về tính
đúng sai, các khía cạnh pháp lý, lợi ích của các tài liệu nói trên mà Luật sư lại
nhận lời tư vấn thì Luật sư đã vi phạm vào điều cấm của Luật Luật sư và nguyên
tắc đạo đức nghề nghiệp của mình là tiết lộ bí mật của khách hàng, được quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư 2006 và theo theo quy tắc 12 trong
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam.
Ví dụ: Khi luật sư tư vấn cho một công ty cổ phần để
xác định việc không áp dụng quy định về thuế thu nhập bồ sung khi thực hiện một
luật thuế mới (giảm hàng trăm triệu đồng so với mức cơ quan thuế dự kiến ấn
định); thì không được sử dụng những tài liệu trên để tư vấn cho công ty khác;
bởi công ty khác có thể là đối thủ cạnh tranh của công ty đã tư vấn và hoạt
động này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trong cho công ty đã tư vấn trước
đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét