Nêu
và phân tích các quy định hiện hành về hình thức, nội dung hợp đồng lao động.
1. Hình
thức của hợp đồng lao động
Theo quy định, hình thức
của HĐLĐ bao gồm: HĐLĐ bằng văn bản, HĐLĐ bằng lời nói (bằng miệng), HĐLĐ bằng
hành vi. Tuy nhiên việc giao kết HĐLĐ theo hình thức nào không phải là sự tùy
liệu của các bên mà phải tuân theo sự quy định của pháp luật.
HĐLĐ bằng văn bản là
loại HĐLĐ kí kết theo mẫu HĐLĐ do Bộ lao động-thương binh và xã hội hướng dẫn.
Theo quy định tại điều 28 BLLĐ 1994 thì “hợp đồng lao động được ký kết bằng văn
bản và phải được lập thành hai bản, mỗi bên giữ một bản” có các loại:
- Hợp đồng lao động
không xác định thời hạn;
- Hợp đồng lao động xác
định thời hạn từ 3 tháng trở lên (Điều 28 BLLĐ)
- Hợp đồng với người coi
giữ tài sản gia đình( Điều 139 BLLĐ)
- Hợp đồng làm việc với
tư cách là vũ nữ, tiếp viên, nhân viên trong các cơ sở dịch vụ như khách sạn,
nhà hàng, sàn nhảy không phân biệt thời hạn thực hiện hợp đồng lao động (Nghị
định 87/CP/ ngày 12/12/1995 về tăng cường quản lý các hoạt động văn hóa và dịch
vụ văn hóa, đẩy mạnh, bài trừ một số tệ nạn nghiêm trọng).
HĐLĐ bằng lời nói do các
bên thỏa thuận thông qua sự đàm phán thương lượng bằng ngôn ngữ mà không lập
thành văn bản, quá trình giao kết có thể có hoặc không có người làm chứng tùy
theo yêu cầu của các bên.(Nghị định 44/2003). Khi giao kết bằng lời nói các bên
đương nhiên phải tuân thủ pháp luật về giao kết HĐLĐ. Hợp đồng bằng lời nói
được áp dụng cho các công việc có tính chất tạm thời mà thời hạn dưới 3 tháng
hoặc với lao động giúp việc gia đình (điều 28 BLLĐ sửa đổi).
HĐLĐ bằng hành vi thể
hiện thông qua hành vi các chủ thể khi tham gia quan hệ (điều 33 BLLĐ sửa đổi).
Sự quy định của pháp
luật về hình thức HĐLĐ là tương đối rõ ràng và cụ thể.
2. Nội dung của hợp đồng
lao động
Khi
nghiên cứu nội dung của HĐLĐ, dưới góc độ pháp lý, người ta xem xét chủ yếu đến
các điều khoản của HĐLĐ bởi sự thỏa thuận cam kết của các bên từ đó tạo lập nên
các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ lao động được thể hiện thông qua các điều
khoản của HĐLĐ. Để có sở sở nghiên cứu, xem xét, đánh giá nội dung của HĐLĐ
(các điều khoản của HĐLĐ) trong khoa học luật lao động người ta có nhiều cách
phân loại các điều khoản nhưng thường dựa trên hai tiêu chí cơ bản: tính chất
và mức độ cần thiết của các điều khoản trong HĐLĐ.
Căn
cứ vào tính chất có thể chia các điều khoản ra làm hai loại: Điều khoản bắt
buộc và điều khoản thỏa thuận.
Thuộc
về những điều khoản bắt buộc là các điều khoản được pháp luật quy định cần phản
ánh trong HĐLĐ hoặc những điều khoản không được có những thỏa thuận tự do. Ví
dụ an toàn lao động, vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội…Điều khoản thỏa thuận là
những điều khoản do các bên thương lượng xác lập trên cơ sở tự do, tự nguyện,
không trái pháp luật.
Dựa vào mức độ cần
thiết, các điều khoản của HĐLĐ cũng gồm 2 loại: Điều khoản cần thiết và điều
khoản bổ sung. Điều khoản cần thiết là những điều khoản không thể thiếu được
trong bản HĐLĐ, nếu thiếu một trong những điều khoản này sẽ ảnh hưởng đến giá
trị pháp lý của bản HĐLĐ. Điều khoản bổ sung là những điều khoản không nhất
thiết phải có trong bản HĐLĐ, sự có mặt hay không của điều khoản bổ sung hình
thành trên cơ sở điều kiện và khả năng mỗi bên. Ví dụ như việc đưa đón công
nhân, ăn trưa, dự liệu trước các tình huống và cách giải quyết khi thực hiện
quan hệ lao động…
Tuy
nhiên, dù dựa theo cách phân loại nào thì theo quy định, HĐLĐ cần có những quy
định sau:
Thứ nhất, theo HĐLĐ mẫu được quy định tại Thông
tư số 21/2003/TT-LĐTBXH ngày 22/9/2003 thì HĐLĐ phải có những nội dung chủ yếu
sau đây: công việc phải làm; địa điểm làm việc; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi; tiền lương;, điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm
xã hội; thời hạn hợp đồng đối với người lao động.
Tuy nhiên, trong các nội dung của
HĐLĐ thì thời hạn của hợp đồng được pháp luật lao động quy định khá cụ thể và
trong thực tế thực hiện cũng là vấn đề được các bên quan tâm. Thời hạn của HĐLĐ
là khoảng thời gian có hiệu lực của HĐLĐ. Thời hạn HĐLĐ bao gồm:
-
HĐLĐ không xác định thời hạn: Là hợp đồng
mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp
đồng. HĐLĐ không xác định thời hạn thường được áp dụng với công việc thường
xuyên , lâu dài vì vậy có tác dụng ổn định lực lượng lao động trong đơn vị sử dụng
lao động. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật đối với loại hợp đồng này, NLĐ
có quyền chấm dứt không cần lí do. Vì vậy đây không phải là loại hợp đồng mà NSDLĐ
ưu tiên lựa chọn.
- HĐLĐ xác định thời hạn: là hợp đồng mà
trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng
trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng hay HĐLĐ theo mùa vụ hoặc
theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng. Người sử dụng lao động
chuẩn bị hợp đồng lao động theo mẫu quy định trên khổ giấy A4 và đóng dấu giáp
lai giữa các trang để sử dụng trong đơn vị.
Thứ hai, trong trường hợp một
phần hoặc toàn bộ nội dung của hợp đồng lao động quy định quyền lợi của người
lao động thấp hơn mức được quy định trong pháp luật lao động, thoả ước lao động
tập thể, nội quy lao động đang áp dụng trong doanh nghiệp hoặc hạn chế các
quyền khác của người lao động thì một phần hoặc toàn bộ nội dung đó phải được
sửa đổi, bổ sung.
Thứ ba, Bộ luật Lao động quy
định: “Không được giao kết hợp đồng lao
động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới một năm để
làm những công việc có tính chất thường xuyên từ một năm trở lên, trừ trường
hợp phải tạm thời thay thế người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự, nghỉ theo
chế độ thai sản hoặc nghỉ việc có tính chất tạm thời khác” (Khoản…..Điều 27
Bộ luật lao động). Quy định này một mặt nhằm bảo vệ quyền lợi NLĐ bởi vì thường
đối với HĐLĐ có thời hạn từ 12 tháng trở lên (đặc biệt với HĐLĐ không xác định
thời hạn) thì chế độ, quyền lợi cũng như vấn đề việc làm của NLĐ được đảm bảo
và ổn định hơn. Tuy nhiên trách nhiệm của NSDLĐ với NLĐ và xã hội cũng cao hơn
so với loại HĐLĐ dưới 1 năm (về đảm bảo việc làm, đào tạo, bảo hiểm xã hội…).
Nhưng mặt khác quy định nói trên cũng nhằm tạo ra một lực lượng lao động ổn
định, có chuyên môn, yên tâm làm việc và gắn bó với doanh nghiệp.
Ngoài
ra, pháp luật quy định cụ thể cách thức giải quyết về thời hạn HĐLĐ khi hợp
đồng xác định thời hạn kết thúc mà NLĐ vẫn tiếp tục làm việc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét