BÀI LÀM
* Khái niệm tư vấn pháp luật : Tư vấn pháp luật là việc
giải đáp pháp luật, hướng dẫn ứng xử đúng pháp luật, cung cấp dịch vụ pháp lý
nhằm giúp công dân, tổ chức trong nước và quốc tế thực hiện và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của họ. Tư vấn pháp luật là một trong các hình thức trợ giúp pháp
lý.
* Mục đích của
tư vấn pháp luật
- Nâng cao hiểu biết của
người dân về quyền và nghĩa vụ công dân cũng như ý thức chấp hành pháp luật cho
người dân;
- Góp phần tuyên truyền, phổ
biến, giải thích pháp luật; giảm bớt thời gian khiếu nại, tố cáo và giải quyết
khiếu nại, tố cáo đồng thời tăng cường đoàn kết trong cộng đồng.
- Đưa ra những kiến nghị, đề
xuất kịp thời để hoàn chỉnh, bổ sung hệ thống pháp luật trên cơ sở thông qua hoạt
động tư vấn pháp luật đồng thời nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu và thực
trạng vi phạm pháp luật, cũng như thực trạng áp dụng pháp luật trong địa phương
hay toàn quốc.
- Nâng cao hiệu quả quản
lý, tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước; củng cố niềm tin của người
dân đối với cơ quan nhà nước, cơ quan bảo vệ pháp luật.
- Hoạt động tư vấn pháp luật
là cầu nối quan trọng giữa người xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, thực
thi pháp luật và công dân.
XEM THÊM: THAY ĐỔI NỘI DUNG ĐĂNG KÍ DOANH NGHIỆP
- Với
người mang nặng suy nghĩ chủ quan, luôn cho rằng mình đúng: người tư vấn phải từ tốn giải thích để khách
hàng trình bày một cách mạch lạc, cung cấp các thông tin cần thiết đối với việc
cần tư vấn cho người tư vấn.
- Với
người biết mình sai, có đầy đủ cơ sở để chứng tỏ mình sai những vẫn muốn người
tư vấn biến cái sai của mình thành cái đúng để họ được lợi: người tư vấn cần giúp họ giải toả về tâm lý,
để họ thấy rằng pháp luật chỉ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mọi người.
Trong những trường hợp cụ thể người tư vấn có thể giúp khách hàng của mình tận
dụng các quy định của pháp luật để giảm bớt trách nhiệm của họ.
- Nghe
khách hàng trình bày: người
tư vấn phải lắng nghe và ghi chép những nội dung chính, ý chính, đặt câu hỏi
làm rõ thêm vụ việc.
- Yêu cầu
khách hàng cung cấp các tài liệu liên quan đến việc cần tư vấn: khách hàng là người trong cuộc, vì vậy các việc
mà họ yêu cầu tư vấn thường có các tài liệu, văn bản, thư từ giao dịch... những
giấy tờ này phản ánh bản chất, diễn biến của vụ việc. Nếu người tư vấn không có
được những tài liệu này thì việc tư vấn có thể không chính xác. Trường hợp
khách hàng chưa muốn cung cấp cho người tư vấn những tài liệu không có lợi cho
mình, người tư vấn cần động viên họ để họ cung cấp đầy đủ. Trường hợp sau khi
nghe khách hàng trình bày và nghiên cứu các tài liệu do họ cung cấp mà thấy
không thể trả lời ngay được, thì người tư vấn cần phải thông báo điều đó cho
khách hàng và hẹn gặp họ vào một ngày khác.
- Tra cứu
tài liệu tham khảo: là bắt buộc
đối với người tư vấn pháp luật, vì:
+ Để khẳng
định với khách hàng rằng người tư vấn đang tư vấn theo luật chứ không phải theo
cảm tính chủ quan.
+ Tra cứu
tài liệu tham khảo giúp người tư vấn khẳng định chính những suy nghĩ của mình.
- Định
hướng cho khách hàng: đưa ra
giải pháp bằng miệng cho khách hàng để trả lời các vấn đề mà khách hàng yêu cầu.
Việc tư vấn
bằng văn bản thông thường được tiến hành vì những lý do sau đây:
- Khách
hàng ở xa, không trực tiếp đến gặp người tư vấn để xin tư vấn bằng miệng.
- Kết quả
tư vấn bằng văn bản có thể được khách hàng sử dụng để phục vụ cho mục đích của
họ.
Việc tư
vấn bằng văn bản có thể thực hiện theo hai hình thức sau đây:
- Khách
hàng viết đơn, chuyển fax... cho người tư vấn, nêu rõ yêu cầu của mình dưới dạng
các câu hỏi. Hình thức này dễ làm, có hiệu quả và đạt độ chính xác cao.
- Khách
hàng trực tiếp đến gặp người tư vấn, trực tiếp nêu yêu cầu của mình với người
tư vấn và đề nghị họ tư vấn bằng văn bản.
Tư vấn
bằng văn bản cần lưu ý thực hiện theo các bước sau đây:
- Nghiên cứu
kỹ yêu cầu của khách hàng;
- Trao đổi
với khách hàng về yêu cầu của họ để khẳng định trong một số trường hợp cần thiết;
- Tra cứu
các tài liệu văn bản pháp luật có liên quan đến phục vụ cho việc tư vấn;
- Soạn văn
bản trả lời cho khách hàng.
Việc thu
thập, nghiên cứu, bảo quản và đánh giá chứng cứ trong hoạt động tư vấn pháp luật
cũng rất quan trọng; quá trình này diễn ra nhanh chóng và đòi hỏi độ chính xác,
độ tin cậy cao. Thu thập chứng cứ là việc người tư vấn yêu cầu khách hàng làm
rõ những vấn đề cần quan tâm, yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu trong quá
trình tư vấn. Quá trình nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, người tư vấn cần phải
huy động nhiều biện pháp khác nhau và kết hợp thành một quá trình logic để đưa
ra kết luận, như biện pháp đặt câu hỏi, tham khảo tài liệu, văn bản, vận dụng
kinh nghiệm cá nhân hoặc kinh nghiệm của người khác...
Thứ nhất là kỹ năng giao
tiếp với khách hàng
Trước
hết cần xác định trường hợp này là tư vấn về thu hổi đất. Ngoài các kỹ năng
giao tiếp nói chung nhà tư vấn cần chú ý: trong quá trình tư vấn cần đề nghị
khách hàng (ông A) cung cấp đầy đủ các giấy tờ, chứng cứ có liên quan. Đó là
các giấy từ chứng minh ông A có đủ điều kiện để được bồi thường, hỗ trợ (Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất) và quyết định thu hồi đất, thông báo thu hồi đất
của cơ quan có thẩm quyền giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở; giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đất nông nghiệp; Quyết định thu hồi đất của UBND huyện H; Quyết
định bồi thường và hỗ trợ thu hồi đất của UBND huyện H……
Lưu ý: tư vấn viên chỉ yêu cầu ông A cung cấp
các giấy tờ trên ở dạng phô tô để nghiên cứu, không yêu cầu khách hàng giao bản
gốc.
Thứ hai là kỹ năng thu thập
thông tin, chứng cứ trong hoạt động tư vấn.
Kỹ
năng thu thập thông tin từ khách hàng trong tư vấn pháp luật được coi là kỹ
năng tương tác thông tin, được thực hiện bằng sự biểu hiện các hành vi: hành vi
đặt câu hỏi và hành vi lắng nghe.
“Đặt
câu hỏi” là việc đưa ra các thông điệp nhất định tác động đến người khác để họ
cung cấp những thông tin cần thiết. Người tư vấn có thê đặt ra các câu hỏi để lấy
thông tin từ người đến nhờ tư vấn (ông A). Trước khi đặt câu hỏi, người tư vấn
phải xác định được đầy đủ các nội dung cần hỏi, điều này người tư vấn hình dung
được cần phải đặt các câu hỏi về vấn đề nào, trình tự tìm hiểu về các vấn đề
đó, có thể bắt đầu bằng các câu hỏi như: Ông có thể nêu tóm tắt nội dung của
vụ việc mà ông cần tư vấn? những yêu cầu mà ông đặt ra? Rồi sau đó hỏi một
số chi tiết cụ thể như: ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào
thời gian nào, việc sử dụng mảnh đất nông nghiệp của gia đình ông như thế nào?.....
Lắng
nghe trong tư vấn pháp luật của người tư vấn là hành vi tiếp nhận và hiểu thông
tin một cách có chủ ý, có mục đích. Thông qua lắng nghe sẽ giúp cho người tư vấn xác định được thông tin nào quan trọng, thông
tin nào hỗ trợ và sắp xếp chúng theo một trật tự nhất định. Người tư vấn phải
chú ý lắng nghe nội dung vụ việc mà ông A trình bày, những tình tiết liên quan
đến vụ việc. Nếu khi nge ông A trình bày, có vấn đề gì chưa rõ thì hỏi lại ông
A cho rõ. Khi lắng nge ông A trình bày về vụ việc thì người tư vấn cần phải có
sự tập trung chú ý lắng nghe, thể hiện thái độ thân thiện.
Thứ ba là kỹ năng nghiên cứu
và tra cứu các văn bản pháp luật
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ việc, người tư
vấn cần nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ mà khách hàng cung cấp có xác thực và
hợp pháp không? đối chiếu với các quy định của pháp luật về thu hồi đất để xác
định tính hợp pháp của vụ việc. Cụ thể, cần đối chiếu quyết định thu hồi đất với
thẩm quyền thu hồi đất được quy định trong văn bản luật, đối tượng bị thu hồi,
quy định của pháp luật về mức bồi thường…
Để xác định các văn bản pháp luật cần
tra cứu, thì tư vấn viên cần xác định được nội dung các yêu cầu của khách hàng.
Cụ thể ở đây, ông A yêu cầu hai vấn đề:
+ Chỉ ra những nội dung trái pháp luật
khi áp dụng mức bồi thường nêu trên đối với đất của gia đình ông A;
+ Soạn thảo giúp ông A đơn khiếu nại
lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc không đồng ý với mức bồi thường nêu
trên và mức bồi thường phải được nâng lên là 189.000 đồng/m2 loại đất
nông nghiệp trồng cây lâu năm). Mức hỗ
trợ bằng 70% giá đất ở.
Đối
với hai yêu cầu này, người tư vấn cần xác định các văn bản pháp luật có liên
quan (căn cứ vào thời điểm ông A bị thu hồi đất để xác định đúng văn bản pháp
luật có liên quan) như sau :
+ Luật Đất đai năm 2003
+ Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày
29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành luật đất đai
+Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/12/2004 về bồi thường và hỗ trợ
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
+ Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày
13/08/2009 của Chính phủ Quy định bổ sung về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
+ Nghị định số 188/2004/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại.
+ Nghị định số 123/2007/NĐ-CP của
Chính Phủ ngày 27/7/2007 sửa đổi, bổ sung, một số điều của nghị định số
188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về phương pháp xác định giá đất và
khung giá các loại đất.
+ Thông tư số 06/2007/TT- BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi Trường
+Thông tư liên tịch số
14/2008/TTLT/BTC-BTNMT ngày 31/01/2008 của Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên và Môi
trường hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày
25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi
đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai…..
+ Luật Khiếu nại………..
Ngoài ra còn căn cứ vào nơi có đất bị
thu hồi để xác định các văn bản có liên quan về phương án, mức bồi thường theo
loại đất và ở từng khu vực……
Sau
khi đã xác định được các văn bản cần nghiên cứu, người tư vấn cần so sánh, đối
chiếu giữa các tình tiết, nội dung vụ việc với văn bản pháp luật. Sử dụng
phương pháp phân tích, lập luận để từ đó xây dựng phương án tư vấn.
Thứ
tư là kỹ năng trình bày thuyết phục
Trong quá trình trình bày nội dung tư vấn, khi đưa ra một đánh giá nhận định khách quan để thuyết phục
khách hàng, người tư vấn cần viện dẫn, trích dẫn rõ các điều luật có liên quan nằm trong văn bản
nào không được viện dẫn những văn bản đã hết hiệu lực, nếu khách hàng yêu cầu
có thể cung cấp cho họ. Khi trình bày, cần chỉ rõ cho khách hàng thấy được sự
mâu thuẫn, các tình tiết bất hợp pháp (nếu có) của quyết định thu hồi đất và phương án bồi thường và đưa ra các chứng cứ chứng minh.
Ngoài
các kỹ năng trên đây, người tư vấn cần phải đáp ứng một số yêu cầu khác như; am
hiểu về hồ sơ địa chính có liên quan đến vụ việc, am hiểu về phong tục, tập
quán sử dụng đất; nguồn gốc sử dụng đất; những điểm đặc thù của mỗi địa phương
về tổ chức, thực thi pháp luật về thu hồi đất. Ngoài ra phải biết sử dụng các
công cụ truyền thông, phương tiện báo chí, tạo dư luận xã hội để bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của khách hàng.
Để
giải quyết vụ việc trên, người tư vấn cần đặt ra và làm rõ những vấn đề pháp lí
sau:
-
Thứ nhất, nguồn gốc của mảnh đất mà gia đình ông A sở hữu và việc sử dụng diện
tích đất của gia đình ông A có hợp pháp hay không?
-
Thứ hai, việc Nhà nước bồi thường với mức cụ thể là: 168.000 đồng/m2 (đất nông
nghiệp trồng cây hằng năm) và mức hỗ trợ là 30% giá đất nông nghiệp trồng cây hằng
năm khi thu hồi 360m2 đất nông nghiệp đã được nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất có đúng với quy định của pháp luật không? Nếu có sai phạm thì căn cứ
vào những cơ sở pháp lý nào để xác định?
- Thứ ba, nếu có đủ căn cứ pháp lý cho rằng việc
bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất là trái pháp luật thì ông A có quyền khiếu nại
không? Đơn, thư khiếu nại được gửi
đến cơ quan có thẩm quyền nào? Hình thức, nội dung đơn khiếu nại?
Về nguồn gốc thửa đất: thửa đât trên thuộc quyền
sử dụng của cha mẹ ông A từ trước năm 1982.
Từ năm 1982 đến nay, ông bà A sinh sống ổn định
trên thửa đất này và không có tranh chấp với người khác.
Thời điểm hiện tại, thửa đất trên đã được UBND
huyện H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông A bao gồm:
600 m² đất ở và 360 m² đất nông nghiệp. Việc sinh sống và sử dụng thửa đất trên
của vợ chồng ông A là hoàn toàn hợp pháp và đã được nhà nước công nhận ( theo
quy định tại khoản 2 Điều 9 luật đất đai năm 2003).
Năm
2010, Nhà nước có nhu cầu lấy đất để làm đường giao thông liên tỉnh và lấy đi
360m2 đất nông nghiệp của gia đình ông. Gia đình ông được Nhà nước bồi thường với
mức cụ thể là: 168.000 đồng/m2 (đất nông nghiệp trồng cây hằng năm) và mức hỗ
trợ là 30% giá đất nông nghiệp trồng cây hằng năm.
Về điều kiện được bồi thường
Như
đã phân tích ở trên mảnh đất của gia đình ông A có nguồn gốc rõ ràng, không có
tranh chấp và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở; đất nông nghiệp
năm 2006. Theo khoản 1 Điều 42 Luật Đất đai năm 2003 đã được sửa đổi bổ sung và
Điều 8 Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất, thì gia đình ông A có đủ điều kiện để được nhà nước
bồi thường: “Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người bị thu hồi
đất có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất...thì người bị thu hồi đất được bồi thường...”.
Về mức bồi thường mà gia đình ông A được nhận :
Theo
đề bài, mức bồi thường mà gia đình ông A nhận được là 168.000 đồng/m2 và mức hỗ trợ là 30% giá đất nông nghiệp
trồng cây hằng năm. Căn cứ vào đoạn 1 Điểm d Khoản 2 Điều 13 Nghị định
188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các
loại đất đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007
thì:
“
Điều 13. Định giá đất cụ thể tại địa phương
…
2. Phương pháp định giá cụ thể cho từng loại đất
d) Giá đất trong các trường hợp sau được quy định bằng
mức giá đất trồng cây lâu năm ở vị trí 1 cùng vùng trong tỉnh:
- Đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở nhưng
không được xác định là đất ở; ....”
Như
vậy, việc xác định mức bồi thường theo giá đất nông nghiệp trồng cây hằng năm của
cơ quan có nhà nước có thẩm quyền cho gia đình ông A là không đúng. Theo quy định
nêu trên mức bồi thường mà gia đình ông A được nhận là mức bồi thường theo mức
giá đất trồng cây lâu năm, mức bồi thường phải được nâng lên là 189.000 đồng/m2.
Áp
dụng khoản 1 Điều 21 Nghị định 69/NĐ-CP ngày 13/8//2009 quy định bổ sung về quy
hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: Hỗ
trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư và đất vườn ao không được công nhận
là đất ở “Gia đình, cá nhân khi bị
thu hồi đất vườn ao trong cùng thửa đất có nhà ở trong khu dân cư nhưng không
được công nhận là đất ở; đất vườn ao trong cùng thửa đất có nhà ở riêng lẻ; đất
vườn ao trong cùng thửa đất có nhà ở dọc kênh mương và dọc tuyến đường giao
thông thì ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp trồng cây lâu năm
còn được hỗ trợ bằng 30% - 70% giá đất ở của thửa đất đó; diện tích được hỗ trợ
không quá 05 lần hạn mức giao đất tại địa phương”. Theo đó, mức hỗ trợ mà
gia đình ông A được nhận thỏa đáng phải là 70% giá đất ở.
Theo
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 162 Nghị định 181/2004/NĐ-CP về hướng dẫn thi
hành Luật Đất đai 2003 thì ông A hoàn toàn có quyền khiếu nại đối với quyết định
của Nhà nước về việc bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất của gia đình ông.
Căn
cứ quy định tại Điều 163 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004
về hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003 thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày
gia đình ông A nhận được quyết định bồi thường của Nhà nước đối với mảnh đất mà
gia đình ông sử dụng, ông A phải gửi đơn khiếu nại đến UBND huyện,quận, thành
phố trực thuộc tỉnh nơi có đất bị thu hồi. Trong nội dung đơn khiếu nại ông A
phải chỉ rằng trái theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 69/2009/NĐ- CP
ngày 13/8//2009 quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất,
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thì quyết định bồi thường, hỗ trợ khi thu đất
là trái luật. Và trên cơ sở quy định trên ông A đưa ra yêu cầu của mình về mức
bồi thường. Cụ thể ông A có thể soạn đơn như sau:
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự
do – Hạnh phúc
-----------------------------
H, ngày …
tháng … năm 2013
ĐƠN KHIẾU NẠI
Kính gửi: Chủ tịch
UBND huyện H đồng kính gửi Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện H.
Tên
tôi là: Nguyễn Văn A Sinh
năm: 1945
Số CMND: ********* do CA tỉnh ** cấp ngày
.../.../...
Hộ khẩu thường trú tại:
Xóm ..., xã ..., huyện ..., tỉnh...
Tôi xin khiếu nại một việc như sau:
Vợ
chồng tôi được cha mẹ để lại cho một mảnh đất có diện tích 960m2 và
chúng tôi đã sinh sống ổn định từ đó đến nay mà không xảy ra tranh chấp. Năm
2006, UBND huyện thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, theo đó
công nhận 600m2 đất là đất ở và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho gia đình chúng tôi. Phần còn lại là 360m2 là đất vườn ao liền thửa với đất ở nhưng
không được công nhận là đất ở nên chúng tôi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất nông nghiệp. Hiện nay, chúng tôi vẫn còn cất giữ cẩn thận 02 (hai) loại giấy
tờ này.
Năm
2010, nhà nước có nhu cầu lấy đất để làm đường giao thông liên tỉnh và thu hồi
360m2 đất nông nghiệp của
tôi. Gia đình chúng tôi hoàn toàn không gây khó khăn cho việc thu hồi của cơ
quan nhà nước. Tuy nhiên, mức bồi thường mà chúng tôi nhận được là chưa thỏa
đáng theo quy định của pháp luật. Theo tôi được biết trường hợp đất vườn ao liền
thửa với đất ở nhưng không được công nhận là đất ở thì giá đất bồi thường được
quy định bằng mức giá đất trồng cây lâu năm và ngoài ra mức hỗ trợ bằng 30% -
70% giá đất ở của thửa đất đó. Tuy nhiên, mức bồi thường mà chúng tôi nhận được
là mức bồi thường bằng mức giá đất trồng cây hằng năm và mức hỗ trợ bằng 30%
giá đất ở.
Chính
vì sự băn khoăn nói trên tôi kính đề nghị Chủ tịch UBND huyện H; Hội đồng bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư và các cơ quan có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh lại
mức giá bồi thường cho gia đình chúng tôi theo đúng quy định của pháp luật. Đồng
thời đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của gia đình tôi, trên hết là đảm bảo
sự công bằng xã hội.
Tôi
xin trân trọng cảm ơn!
Nơi
nhận
-Như
trên
Người làm đơn
Nguyễn
Văn A
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét