Đề bài
A là học sinh lớp 1 thường
được bố đưa đón đi học. 17h ngày 25 tháng 08 năm 2011, sau khi tan học, trong
khi A đang đứng ở cổng trường chờ bố đến đón thì Nguyễn Văn B thấy A đeo 1 sợi
dây chuyền nên lại gần và hỏi “Cháu tên
là gì?” Cháu A lễ phép trả lời câu hỏi của B. Sau đó, B liên tiếp hỏi A một
số câu hỏi như: cháu bao nhiêu tuổi, cháu học lớp nào, cô giáo cháu tên gì, nhà
cháu ở đâu… Trong lúc hỏi chuyện, B xoa đầu A rồi tháo một sợi dây chuyền vàng
đeo trên cổ A. Sau khi kết thúc vài ba câu hỏi, B bỏ đi cùng chiếc dây chuyền
vàng vừa tháo được. Chiếc dây chuyền vàng của A trị giá 5 triệu đồng.
Về vụ án trên có các quan điểm
sau:
a. B phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
b. B phạm tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản.
c. B phạm tội cướp giật tài
sản.
Hỏi:
1. Anh (chị) đồng ý
với ý kiến nào trên đây hoặc có ý kiến nào khác và giải thích rõ tại sao? (3 điểm)
2. Giả sử khi thấy B
tháo dây chuyền thì A cầm lấy tay B và nói: “Sao chú lại tháo dây chuyền của
cháu?” B hất tay A ra và giật mạnh chiếc dây rồi bỏ chạy thì tội danh của B có
thay đổi không? (2 điểm)
3. Giả sử chiếc dây
chuyền mà B chiếm đoạt được là vàng giả thì B có phải chịu TNHS không? Tại sao?
(2 điểm
1.
Anh (chị) đồng ý
với ý kiến nào trên đây hoặc có ý kiến nào khác và giải thích rõ tại sao?
Theo em trong vụ án này B phạm
tội trộm cắp tài sản. Vì:
Hành vi phạm tội của B đều thỏa mãn các dấu hiệu trong CTTP tội
trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS).
Dấu hiệu chiếm đoạt trong CTTP
tội trộm cắp tài sản được thực tiễn xét xử từ trước đến nay hiểu là chiếm đoạt
được. Để đánh giá người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa, đã làm chủ được
tài sản hay chưa phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt. Thực tiễn
xét xử đã chấp nhận hướng giải quyết cụ thể về trường hợp chiếm đoạt được, đối
với vật chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi là chiếm đoạt được khi người phạm tội đã giấu
được tài sản đó trong người.
Hành vi chiếm đoạt của tội
trộm cắp tài sản có hai dấu hiệu phân biệt với hành vi chiếm đoạt của các tội
phạm khác. Đó là dấu hiệu lén lút và tài sản đang có chủ.
+ Lén lút là dấu hiệu có nội
dung trái ngược với công khai. Dấu hiệu này vừa chỉ đặc điểm khách quan của
hành vi chiếm đoạt vừa chỉ ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi đó. Hành
vi chiếm đoạt có đặc điểm khách quan là lén lút và ý thức chủ quan của người
thực hiện cũng là lén lút. Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu được thực
hiện bằng hình thức mà hình thức đó có khả năng không cho phép người chủ tài
sản biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi đó xảy ra. Việc che dấu này chỉ đòi
hỏi với chủ tài sản, còn đối với những người khác có thể là công khai.
+ Tài sản là đối tượng của
trộm cắp tài sản là tài sản đang có chủ. Hành vi trộm cắp phải là lén lút chiếm
đoạt tài sản đang có chủ. Tài sản đang có chủ là tài sản đang trong sự chiếm
hữu của người khác, nghĩa là đang nằm trong sự chi phối về mặt thực tế của chủ
tài sản hoặc người có trách nhiệm. Hoặc, tài sản còn trong khu vực quản lí, bảo
quản của chủ tài sản.
Trong vụ án này, vật mà B chiếm
đoạt là sợi dây chuyền vàng – là một vật nhỏ, dễ cất dấu trong người. Như vậy,
tội trộm cắp tài sản của B đã hoàn thành khi B dấu được dây chuyền trong người.
Hành vi chiếm đoạt tài sản của B lén lút không cho A biết bằng cách “ B
liên tiếp hỏi A một số câu hỏi như: cháu bao nhiêu tuổi, cháu học lớp nào, cô
giáo cháu tên gì, nhà cháu ở đâu… Trong lúc hỏi chuyện, B xoa đầu A rồi tháo
một sợi dây chuyền vàng đeo trên cổ A”. Tài sản là chiếc dây chuyền
đang có chủ - sợi dây chuyền đang trong sự chiếm hữu của A, nghĩa là đang nằm
trong sự chi phối về mặt thực tế của A.
Từ những phân tích trên ta có thể khẳng định B đã lén lút chiếm đoạt
sợi dây chuyển vàng của A. Do vậy, hành vi phạm tội của B thoản mãn các dấu
hiệu của CTTP tội trộm cắp tài sản.
2.
Giả sử khi thấy B
tháo dây chuyền thì A cầm lấy tay B và nói: “Sao chú lại tháo dây chuyền của
cháu?” B hất tay A ra và giật mạnh chiếc dây rồi bỏ chạy thì tội danh của B có
thay đổi không?
Trong
trường hợp này tội danh của B đã thay đổi, lúc này tội trộm cắp tài sản của B
đã chuyển hóa thành tội cướp giật tài sản.Vì:
Căn cứ theo Điều 136 BLHS tội
cướp giật tài sản. Ở đây, Điều 136 BLHS không mô tả cụ thể các dấu hiệu của tội
này mà chỉ nêu tội danh. Từ thực tiễn xét xử đã được thừa nhận có thể định
nghĩa: Tội cướp giật tài sản là hành vi
nhanh chóng chiếm đoạt tài sản một cách công khai.
Các dấu hiệu pháp lí của tội
này.
- Hành vi phạm tội: Hành vi
phạm tội của tội này là dấu hiệu chiếm đoạt. Hành vi chiếm đoạt của tội cướp
giật tài sản có hai dấu hiệu để phân biệt với hành vi chiếm đoạt của tội phạm
khác. Đó là dấu hiệu công khai và nhanh chóng.
+ Dấu hiệu công khai: Dấu hiệu
này vừa chỉ tính chất khách quan của hành vi chiếm đoạt vừa thể hiện ý thức chủ
quan của người phạm tội. Hành vi được coi là công khai nếu hình thức thực hiện cho phép chủ tài sản
có khả năng biết hành vi này xảy ra. Trong vụ án này, tuy lúc đầu B không muốn
hành vi chiếm đoạt của mình để A biết, nhưng tài sản mà B chiếm đoạt chưa kịp
cất giấu thì đã bị A phát hiện: “ thấy B
tháo dây chuyền thì A cầm lấy tay B và nói: “Sao chú lại tháo dây chuyền của
cháu?” B hất tay A ra và giật mạnh chiếc dây rồi bỏ chạy”. Ở đây hành vi
chiếm đoạt tài sản của B đã chuyển hóa từ lén lút sang công khai chiếm đoạt tài
sản. Trong vụ án này, B đã công khai chiếm đoạt sợi dây chuyền từ A bằng cách
giật mạnh chiếc dây khi A cầm lấy tay B.
+ Dấu hiệu nhanh chóng phản
ánh thực hiện hành vi chiếm đoạt của người cướp giật tài sản. Đó là thủ đoạn
lợi dụng sơ hở của chủ tài sản ( sơ hở này có thể là sẵn có hay do người phạm
tội tạo ra) nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng
lẩn tránh. Thông thường hình thức nhanh chóng chiếm đoạt có thể là giật lấy tài
sản, giành lấy tài sản và nhanh chóng tẩu thoát. Với thủ đoạt này, người phạm
tội mong muốn chủ tài sản không kịp có điều kiện phản ứng ngăn cản việc chiếm
đoạt tài sản và do vậy hoàn toàn không có ý định dùng bất kì thủ đoạn nào khác
đối phó trực tiếp với chủ tài sản. Trong vụ án này, ban đầu B thực hiện hành vi
lén lút để tháo sợi dây chuyền của A nhưng thật không may cho B là bị A phát
hiện và nắm lấy tay. Trong tình huống đó B đã giật mạnh sợi dây chuyền mà nhanh
chóng bỏ chạy để A không kịp có điều kiện phản ứng ngăn cản việc chiếm đoạt tài
sản của B mặt khác, A mới học lớp 1 nên A chưa đủ khả năng để ngăn cản được
hành vi của B.
Như vậy, trong trường hợp này tội danh của B đã thay đổi, lúc
này tội trộm cắp tài sản của B đã chuyển hóa thành tội cướp giật tài sản.
3.
Giả sử chiếc dây
chuyền mà B chiếm đoạt được là vàng giả thì B có phải chịu TNHS không? Tại sao?
Giả sử chiếc dây chuyền mà B
chiếm đoạt được là vàng giả thì B có phải chịu TNHS. Vì:
Khách thể trong vụ án này là quan hệ tài sản tuy nhiên
do ý thức chủ quan của B nên B đã sai lầm về khách thể: Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Sai lầm về
khách thể là sự hiểu lầm
của chủ thể về tính chất của quan hệ xã hội mà hành vi của họ xâm hại tới. Trong
trường hợp sai lầm về khách thể, người phạm tội phỉa chịu trách
nhiệm hình sự về tội có khách thể mà họ cố ý định thực hiện
hoặc tội có khách thê bị xâm hại thực tế nếu họ có lỗi vô ý.
Cụ thể, về mặt ý thức chủ quan
của B thì B cho rằng đó là sợi dây chuyền vàng thật và cố ý chiếm đoạt sợi dây
chuyền đang trong sự quản lí của A. Do hiện này những mặt hàng giả như vậy rất
thịnh hành vì nó đẹp và rẻ hơn vàng thật nên mọi người sử dụng nhiều nên B khó
có thể biết đây là vàng thật hay giả. Ở đây, hành vi phạm tội của B đều thỏa
mãn các dấu hiệu trong CTTP tội trộm cắp tài sản ( đã phân tích ở câu 1).
Do vậy, B vẫn phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản (
Điều 138 BLHS).
Xem thêm: Thủ tục giải thể doanh nghiệp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét