MỞ ĐẦU
Ngày
nay, các mối quan hệ ngày càng được mở rộng, các quan niệm xã hội cũng thoáng
hơn vì vậy mà xuất hiện hiện tượng nam – nữ chung sống như vợ chồng mà không
đăng kí kết hôn khá phổ biến. Vấn đề phát sinh đó là việc xác định quyền và
nghĩa vụ nhân thân và tài sản như thế nào cho thỏa đáng và đúng theo luật định
khi hai bên nam nữ mong muốn chấm dứt việc sống chung. Xuất phát từ nhận thức
ấy, em xin trình bày bài tập lớn học kì với đề tài: “Hãy xác định quyền và nghĩa vụ
nhân thân và tài sản của các bên nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng
kí kết hôn khi họ mong muốn chấm dứt việc sống chung”.
NỘI DUNG
Hôn
nhân là cơ sở hình thành gia đình - tế bào của xã hội “ gia đình tốt thì xã hội
mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn”[1].
Để củng cố chế độ hôn nhân và đề ra những biện pháp nhằm làm ổn định quan hệ
này, Nhà nước ta đã quy định tại Điều 64 Hiến pháp năm 1992: “ Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình...”
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định rõ: “Kết hôn là việc nam nữ xác lập
quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí
kết hôn”[2]. Có thể
hiểu một cách đơn giản, hôn nhân là hai người nam – nữ đủ điều kiện theo quy
định của pháp luật lấy nhau và có đăng kí kết hôn. Các điều kiện kết hôn hợp
pháp được quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình: Trước hết về độ
tuổi kết hôn, nam là từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 trở lên. Bên cạnh đó, việc
kết hôn do nam - nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối
bên nào; không ai có quyền cưỡng ép hoặc cản trở. Cuối cùng là việc kết hôn
không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 Luật Hôn
nhân và gia đình. Việc đăng kí kết hôn là nghi thức duy nhất làm phát sinh quan
hệ hôn nhân. Chỉ khi đăng kí kết hôn ở cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật thì hôn nhân ấy mới được công nhận.
Hiện nay có rất nhiều nhận thức khác
nhau về vấn đề này. Một số quan điểm cho rằng: “ Nam nữ sống với nhau không làm
hôn thú, nhưng bà con, làng xóm, gia đình hai bên đều công nhận hai người
thường xuyên sống chung một nhà và con cái do họ sinh ra là của hai người….thì
được xem là sống chung như vợ chồng.”
Có quan điểm khác lại cho rằng: “
chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người
khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng lại chung sống với người khác mà mình
biết rõ họ đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng
cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được
chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như
vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn
duy trì quan hệ đó…”
Một vài ý kiến khác cho rằng: “ chung
sống như vợ chồng có nghĩa là: Phải
chung sống thực tế, thường xuyên trong một mái nhà, thường xuyên qua đêm công
khai và được nhiều người biết đến thì mới được gọi là chung sống như vợ chồng”. Trong xã hội hiện nay có rất nhiều cách
hiểu về vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng. Theo quy định tại điểm d mục 2
thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Bộ tư pháp số 01/2001/ TTLT -TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 03 tháng 01 năm 2001
thì “ được coi là nam nữ chung sống như
vợ chồng khi thuộc một trong các trường hợp sau:
-
Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;
-
Việc nam nữ về chung sống với nhau
được gia đình ( một trong hai bên) chấp nhận;
-
Việc nam nữ về chung sống với nhau
được người khác hay tổ chức chứng kiến.
-
Họ thực sự chung sống với nhau, chăm
sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình”
Dưới
góc độ pháp lí thì nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn là
trường hợp nam nữ đều có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật nhưng
không đăng kí kết hôn. Về nguyên tắc, không đăng kí kết hôn thì không được coi
là hôn nhân nhưng thực tế có những trường hợp không đăng kí kết hôn vẫn được
thừa nhận là hôn nhân hợp pháp, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ về nhân
thân và tài sản giữa hai bên. Cụ thể là tại Điều 3 Nghị quyết số 35/2000/QH của
Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình quy định:
“3.Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11
của Luật này được thực hiện như sau: a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được
xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm
1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn;
trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy
định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; b) Nam và nữ chung sống
với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm
2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ
đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến
ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn,
nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ
không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng; c) Kể từ
ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b
khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu
ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có
yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.”
Theo
quy định tại Điều 2 Nghị định 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của chính phủ quy
định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH của Quốc hội về
việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình thì:
“Những trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập trước ngày 03
tháng 01 năm 1987, mà chưa đăng ký kết hôn, thì được Nhà nước khuyến khích và
tạo điều kiện thuận tiện cho đăng ký kết hôn. Việc đăng ký kết hôn đối với
những trường hợp này không bị hạn chế về thời gian. Nam và nữ chung sống với
nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001 mà
có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000,
thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn. Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không
đăng ký kết hôn, thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng”.
Như
vậy, đối với các trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng từ trước ngày
03/01/1987, hai bên dù không đăng kí kết hôn vẫn được pháp luật công nhận là vợ
chồng, gọi là chung sống như vợ chồng có
giá trị pháp lí. Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ
ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, hai bên nam nữ chung
sống với nhau như vợ chồng không đăng kí kết hôn, không vi phạm điều kiện kết
hôn nhưng không thuộc trường hợp pháp luật thừa nhận, gọi là chung sống với nhau như vợ chồng không có
giá trị pháp lí. Từ ngày 01/01/2001, hai bên nam nữ chung sống với nhau như
vợ chồng, không đăng kí kết hôn và vi phạm điều kiện kết hôn gọi là chung sống trái pháp luật.
Tuy nhiên
xuất phát từ một vài lí do mà các bên không tiến hành đăng kí kết hôn. Ví dụ
như ở các tỉnh miền núi, do phong tục tập quán,kết hôn chỉ cần sự chứng kiến
của già làng nên việc đăng kí kết hôn khi lấy vợ lấy chồng vẫn chưa được người
dân biết đến và quan tâm. Hoặc ở thành phố với lối sống “ nhà nào biết nhà đấy”
và do sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng tự do cá nhân đã tạo điều kiện cho việc
nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng kí kết hôn diễn ra phổ biến. Đây
chính là một đặc điểm cơ bản để phân biệt với trường hợp nam nữ không đủ điều
kiện kết hôn trái pháp luật.
Đối với các
trường hợp nam nữ không đủ điều kiện kết hôn hoặc kết hôn trái pháp luật, các
bên nam nữ đều không đủ điều kiện kết hôn có thể là về độ tuổi, về ý chí tự
nguyện hoặc vi phạm điều cấm của xã hội mà không thế đăng kí kêt hôn hoặc mặc
dù có đăng kí kết hôn nhưng cũng không được công nhận là vợ chồng. Còn trong
trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng, hai bên nam nữ không hề vi phạm
những điều kiện về kết hôn theo quy định của pháp luật. Về nội dung giữa hôn
nhân hợp pháp với và nam nữ chung sống như vợ chồng không có sự khác nhau.
Chính vì vậy, hành vi chung sống như vợ chồng của hai bên là hoàn toàn không vi
phạm pháp luật.
Về mặt hình
thức, nam nữ chung sống như vợ chồng là trường hợp nam nữ chung sống nhưng giữa
họ không có Giấy chứng nhận kết hôn do cơ quan đăng kí kết hôn cấp. Điều đó có
nghĩa là giữa họ trong quan hệ hôn nhân không có chứng cứ về mặt pháp lí để
khẳng định họ là vợ chồng. Theo quy định của pháp luật, nam nữ chung sống như
vợ chồng không được công nhận là vợ chồng. Nếu đem so sánh với hôn nhân có đăng
kí thì đây là điểm khác biệt cơ bản.
Với trường
hợp này nam nữ chung sống như vợ chồng mà không có đăng kí kết hôn được
pháp luật công nhận là vợ chồng và gọi là chung sống như vợ chồng có giá trị
pháp lí, được pháp luật thừa nhận và được nhà nước khuyến khích và tạo điều
kiện cho đăng kí kết hôn, không hạn chế về mặt thời gian và được miễn lệ phí
đăng kí kết hôn (quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10).
Trong trường
hợp có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
-Quyền và
nghĩa vụ về nhân thân:
Theo quy định
của pháp luật, kể từ thời điểm hai bên nam nữ chung sống với nhau, họ phải gắn
bó với nhau bằng các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa
vợ chồng. Họ phải chung thủy, thương yêu, chăm sóc, quý trọng lẫn nhau, giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ, cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Một trong hai
bên không được phép kết hôn hoặc chung sống với người khác.Nếu giữa họ phát
sinh mâu thuẫn và yêu cầu chấm dứt quan hệ hôn nhân thì Tòa án áp dụng các quy
định về ly hôn để giải quyết.
-Quyền và
nghĩa vụ về tài sản
Theo quy định
của pháp luật, kể từ thời điểm hai bên nam nữ chung sống với nhau giữa họ phát
sinh quyền sở hữu chung hợp nhất về tài sản. Tài sản chung của vợ chông gồm tài
sản do vợ hoặc do chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp
pháp khác của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung hoặc được cho chung. Theo đó, kể từ thời điểm bắt đầu cuộc sống chung vợ
chồng, mọi thu nhập về nghề nghiệp không phân biệt mức thu nhập của người này
cao, mức thu nhập của người kia thấp, mọi tài sản mà vợ hoặc chồng tạo ra, những
thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng, những tài sản mà vợ chồng được tặng cho
chung, được thừa kế chung, những tài sản riêng mà vợ, chồng nhập vào khối tài
sản chung đều là tài sản chung của vợ chồng, Vợ chồng bình đẳng với nhau trong
việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Trên cơ sở đó, trong trường
hợp phải chia tài sản chung hợp nhất thì vợ chồng đều bình đẳng, được hưởng
phần tài sản ngang bằng nhau trong khối tài sản chung.
-Đối với vấn
đề cấp dưỡng: Trong trường hợp vợ chồng yêu cầu ly hôn thì vấn đề cấp dưỡng
được đặt ra khi thỏa mãn các điều kiện của cấp dưỡng. Nếu một bên túng thiếu
yêu cầu cấp dưỡng thì bên kia phải cấp dưỡng theo khả năng của mình. Như vậy,
cấp dưỡng là nghĩa vụ gắn liền với nhân thân vợ chồng, không thể chuyển giao cho
người khác.
-Quyền và
nghĩa vụ đối với con chung
Cha mẹ có đầy
đủ nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Cha mẹ bình đẳng với
nhau trong mối quan hệ với con. Cha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc yêu thương nuôi
dưỡng, giáo dục các con trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Trong
trường hợp cha, mẹ không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ đóng phí tổn
nuôi con. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền quản lý tài sản của con, chịu trách nhiệm
về những hành vi trái pháp luật của con, phải bồi thường thiệt hại cho con theo
quy định của pháp luật. Trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con, pháp luật không
có quy định nào khác biệt giữa trường hợp hôn nhân hợp pháp và hôn nhân trái
pháp luật bởi vì con cái không phải chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm
của cha mẹ chúng trong việc xác lập quan hệ hôn nhân. Mặt khác, xuất phát từ
nguyên tắc bảo vệ quyền lợi cha mẹ và con, các quy định về quyền lợi và nghĩa
vụ giữa cha mẹ và con không thể hiện sự phân biệt đối xử giữa con trong giá thú
và con ngoài giá thú.
Trường
hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày
1/1/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng kí kết hôn trong thời hạn hai năm kể từ ngày Luật
Hôn nhân và gia đình có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003.
Trong thời
hạn này mà họ không đăng kí kết hôn nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng
các quy định về ly hôn để giải quyết. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng
kí kết hôn thì pháp luật không công nhận là vợ chồng.Kể từ sau ngày 01/01/2003
họ mới đăng kí kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được xác lập kể từ ngày họ
đăng kí kết hôn.Nếu sau đó có yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết theo thủ tục
ly hôn ( Mục 2 điểm c Thông tư liên tịch số 01/2000/TTLT – TANDTC – VKSNDTC –
BTP ngày 03/01/2001)
Như vậy, khác
với trường hợp xác lập quan hệ vợ chồng trước ngày 3-1-1987 từ ngày 3-1-1987
các bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà vi phạm thủ tục đăng kí kết
hôn thì “buộc phải đăng kí kết hôn” và đăng kí “ trong thời hạn hai năm kể từ
ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003”.
Trong thời hạn các bên nam nữ có nghĩa vụ đăng kí kết hôn, chúng ta vẫn thừa
nhận quan hệ “hôn nhân thực tế” cho các
trường hợp chưa đăng kí kết hôn. Đây cũng chính là cách giải quyết linh động
nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên nam nữ song vẫn đảm bảo tính thống nhất của
quy định “ buộc các bên phải đăng kí kết hôn”. Bởi vì nếu hết thời hạn quy định
nói trên mà họ không đăng kí kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ
chồng.
Đây là
trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn kể từ ngày
01/01/2001. Pháp luật không thừa nhận mối quan hệ sống chung này là vợ chồng
nên không thể áp dụng Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy khi hai người muốn chấm
dứt sống chung thì việc xác định quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản là
rất phức tạp.
Tuy
nhiên, dù hai người không được pháp luật công nhận là vợ chồng nhưng vẫn có thể
gửi đơn ra Tòa án nhân dân để yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng
giữa hai người, đồng thời yêu cầu tòa án phân chia tài sản theo quy định tại
điểm c khoản 3 Nghị quyết
số 35/2000/QH của Quốc hội. Cụ thể tại điểm c khoản 3 Nghị quyết số
35/2000/QH của Quốc hội có nội dung như sau:
“c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại
điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì
Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về
con và tài sản thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2000 để giải quyết”.
Về hậu quả
pháp lý của việc xác lập quan hệ hôn nhân không đăng kí kết hôn.
Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 không thừa nhận việc kết hôn không đăng kí. Theo đó,
trường hợp các bên xác lập quan hệ vợ chồng nhưng không đăng kí khi có yêu cầu
ly hôn Tòa án sẽ thực hiện biện pháp:
“Tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng”.
Đây là một điểm khác so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Bởi vì, theo
Luật Hôn nhân và gia đình 1986 các bên xác lập quan hệ vợ chồng mà không đăng
kí kết hôn thì khi có yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp xử hủy việc kết hôn trái
pháp luật. Nhưng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, kết hôn trái pháp
luật là trường hợp các bên nam nữ kết hôn có đăng kí nhưng vi phạm điều kiện
kết hôn theo luật định. Vì thế, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định hậu
quả pháp lý của việc kết hôn trái pháp luật. Tòa án áp dụng quy định này để
giải quyết vấn đề tài sản và con chung cho các bên nam nữ xác lập quan hệ hôn
nhân không đăng kí khi có yêu cầu.
Như vậy, từ
ngày 01/01/2001 nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn hoặc
theo nhưng trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng sau ngày
01/01/1987 đến ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực mà không
đăng kí kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân của họ không
có giá trị pháp lý. Nếu có yêu cầu giải quyết vấn đề ly hôn tòa án sẽ áp dụng
các quy định của pháp luật hiện hành và giải quyết như sau:
-Về mặt nhân thân: Tòa án sẽ tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng kể
từ thời điểm đó họ phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng.
-Về tài sản:
Nếu các bên
yêu cầu giải quyết vấn đề tài sản, tòa áp dụng khoản 3 Điều 17 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 để giải quyết như sau:
Tài sản riêng
của ai thì vẫn thuộc về người đó, đương nhiên người có tài sẵn có nghĩa vụ
chứng minh tài sản đó thuộc sở hữu riêng của mình. Trên cơ sở đó tòa án sẽ giải
quyết việc bảo vệ quyền lợi cho người có tài sản riêng.
Đối với tài
sản chung, tài sản chung được chia theo sự thỏa thuận của các bên. Trong trường
hợp này, Tòa án sẽ công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Khi các bên không
thỏa thuận được và yêu cầu tòa án giải quyết, Tòa án sẽ chia tài sản chung cho
hai bên có tính đến “ công sức đóng góp của mỗi bên”. Rõ ràng, tài sản chung
của hai bên nam nữ ở trong trường hợp này không phải là “ chia đôi một cách
bình đẳng” mà “ dấu hiệu” về mặt công sức đóng góp của hai bên vào khối tài sản
chung là căn cứ quan trọng để chúng ta giải quyết việc chia. Tuy nhiên không
chỉ căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên mà phải xem xét đến nguyên tắc bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ và con: Theo quy định của Điều 17
khoản 3 thì quyền lợi của phụ nữ và con được
“ưu tiên” bảo vệ.
-Đối với con chung
Khoản 2 Điều
17 quy đinh: “ Quyền lợi của con được
giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn”.
Theo đó, đối
với trường hợp xác lập quan hệ vợ chồng nhưng không đăng kí kết hôn thì quyền
lợi của các con cũng được pháp luật bảo vệ giống như khi cha mẹ ly hôn. Vì vậy,
khi hai bên nam nữ bị Tòa án tuyên không công nhận là vợ chồng thì họ vẫn phải
có nghĩa vụ đối với con chung. Hai bên có thể thỏa thuận về việc nuôi dưỡng
con, đóng phí tổn nuôi con. Nếu hai bên không thỏa thuận được tòa án sẽ quyết
định giao đứa trẻ cho một trong hai người trực tiếp nuôi dậy, người kia phải
đóng phí tổn nuôi con theo quy định của pháp luật. Trường hợp con nuôi dưới 3
tuổi, Tòa án sẽ giao cho người mẹ nuôi.
Như vậy, có
thể nói giải quyết về mặt pháp luật vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng mà
không đăng kí kết hôn là quy định quan trọng và cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để
chúng ta bảo vệ quyền lợi cho các bên đương sự khi phát sinh tranh chấp.
KẾT BÀI
Vấn đề
xác định quyền và nghĩa vụ nhân thân và tài sản của các bên nam nữ chung sống
như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn khi họ mong muốn chấm dứt việc sống chung
mang tính chất phức tạp và còn nhiều điểm bất cập. Hi vọng rằng sắp tới đây
Luật hôn nhân và gia đình sẽ được sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn
và việc áp dụng sẽ thuận lợi hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét